Trí
thức miền Nam sau 75
Tác
giả: Một Chứng Nhân Của Lịch Sử (Một BCA gởi cho GNA)
Sau
ngày 30-4-1975, Chu Phạm Ngọc Sơn là một nhà chuyên môn hợp tác toàn diện với
chế độ. Ông và một số nhà khoa học khác thường không câu nệ khi nhận các đơn đặt
hàng thực hiện những công trình “khoa học” phục vụ nhu cầu chính trị. Theo Tổng
thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh Huỳnh Kim Báu: “Những năm ấy,
các trí thức Sài Gòn vẫn nhận được điện thoại từ Văn phòng Thành ủy hỏi xem: ‘Có
công trình khoa học chào mừng 3-2 hay 19-5 không?’.
Những
Giáo sư như Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Thới thì mắng ngay: ‘Không có thứ khoa học nào
gọi là khoa học chào mừng cả’. Nhưng một số người khác thì có, người thì làm ra
chất tẩy rửa ‘pentonic’, người chứng minh ‘ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký
thịt bò’, người thì ‘ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo’. Nhưng ngay cả những
‘nỗ lực’ đó cũng không giúp kiến tạo được lòng tin”.
Giáo
sư Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nhìn vào lý lịch, thấy trước đây năm nào tôi cũng đi
Mỹ nghiên cứu hoặc đi dạy, người ta cứ thắc mắc sao đi Mỹ quá trời. Tôi nộp đơn
xin vô Hội Trí thức Yêu nước, mấy lần bị từ chối”. Năm 1980, trong thời gian
Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn đi Liên Xô, một người con của ông vượt biên không
thành. Người con gái của ông cũng cảm thấy bế tắc khi thi không đậu vào dự bị y
khoa. Biết chuyện, ông Võ Văn Kiệt thỉnh thoảng qua lại, trò chuyện, khi hiểu
thêm nội tình, ông nói với Giáo sư Sơn: “Thôi, anh cứ để cho cô ấy và mấy cháu
đi, đi chính thức. Bên đó có điều kiện cho các cháu học hành. Sau này nếu các
cháu trở về thì tốt, nếu không, tôi với anh cũng được làm tròn bổn phận”.
Ông
Huỳnh Kim Báu kể: Sau giải phóng, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn vào Sài Gòn, sau khi
nghe Mai Chí Thọ, Trần Trọng Tân báo cáo tình hình, ông nói: “Nãy giờ có một
chiến lợi phẩm rất lớn mà các đồng chí không đề cập, đó là lực lượng trí thức
được đào tạo từ nhiều nguồn. Lenin nói, không có trí thức là không có xã hội chủ
nghĩa”. Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Kim Báu, cách mà chính quyền sử dụng trí thức
chủ yếu là “làm kiểng”.
Giáo
sư Phạm Hoàng Hộ tuy ở thời điểm đó vẫn còn là hiệu phó Đại học Khoa học, nhưng
theo ông Báu: “Đấy chỉ là một chức vụ bù nhìn, không có vai trò gì trong giáo
dục”. Giáo sư Hộ là hiệu phó nhưng không phải đảng viên, nên khi có vấn đề gì
thì những người trong Đảng họp riêng, quyết định xong, có việc nói vớiông, có
việc ông không bao giờ được biết. Từ rất sớm, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã phản đối
cách đào tạo đưa thời gian học chính trị quá nhiều vào chương trình. Ông cảnh
báo: “Nếu chính trị can dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ mất căn bản”.
Giáo
sư Phạm Hoàng Hộ nói lên điều này sau khi chính ông đã được trải nghiệm trong
những ngày học chính trị. Năm 1977, một lớp học kéo dài mười tám tháng về “Chủ
nghĩa xã hội khoa học” dành riêng cho các trí thức miền Nam đã được tổ chức tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Võ Ba, người tham gia tổ chức lớp học này, kể: “Chính
quyền tưởng rằng sau lớp học sẽ có được một tầng lớp trí thức của chế độ cũ yêu
mến và phụng sự chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nếu như Marxism đã từng được các
trí thức miền Nam quan tâm như là một môn khoa học thì giờ đây họ lại nghe những
giảng sư miền Bắc nói về Marx hết sức giáo điều. Chưa kể, những người đứng lớp
còn rao giảng với tư thế của người chiến thắng, tự tôn, tự đắc”.
Những
đảng viên tham gia lớp học như ông Võ Ba cũng thừa nhận: “Trước giới trí thức
Sài Gòn, chính quyền đã thất bại ngay trong lần trình diễn đầu tiên”.
Chưa
kết thúc lớp học, Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung, một giáo sư triết học nổi tiếng của
Sài Gòn, một người được coi là “hằn học với Giáo hội”, đã coi cộng sản cũng là
“một giáo hội”. Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung cho rằng hình thức “kiểm điểm” mà cộng
sản áp dụng trong sinh hoạt chính là một thứ “xưng tội man rợ”. Về đường lối,
ông cho rằng: “Có thể có những điều Lenin nói đã đúng vào năm 1916, nhưng sau
bảy mươi năm mà ta áp dụng là không lý trí”.
Còn
Giáo sư Châu Tâm Luân thì khi nghe các giảng sư miền Bắc say sưa nói về con
đường “tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản”
đã mỉa mai: “Sao không tìm hiểu xem sau chủ nghĩa cộng sản là gì để nhân tiện bỏ
qua, mình bỏ qua luôn hai, ba bước”. Giáo sư Châu Tâm Luân lấy bằng tiến sỹ về
kinh tế nông nghiệp ở Đại học Illinois, Mỹ, năm hai mươi lăm tuổi, trở về dạy
cùng lúc ở hai trường đại học Minh Đức và Vạn Hạnh. Ông là một trong những trí
thức phản chiến hàng đầu, bị chế độ Sài Gòn bắt giam đầu năm 1975 cho tới những
ngày cuối tháng 4-1975 mới được Chính quyền Dương Văn Minh thả ra. Giáo sư Châu
Tâm Luân là một thành viên của nhóm “sứ giả” được ông Dương Văn Minh phái vào
trại Davis 300 và được giữ lại ở đây cho đến trưa ngày 30-4-1975. Sau giải
phóng, chính quyền xếp ông vào diện “người của ta”. Ông là đại biểu khóa I Hội
đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam.
Về
phía mình, Giáo sư Châu Tâm Luân cũng là một trong những trí thức kỳ vọng nhiều
vào chế độ mới. Mấy tháng “sau giải phóng”, giá cả sinh hoạt tăng vọt lên, trong
khi dân tình lo âu thì ông lại cho là giá tăng vì “tâm lý”, giống như cách giải
thích thời ấy của chính quyền301. Sau khi cho rằng nhà nước không thể dùng ngoại
tệ để nhập hàng như trước đây, Giáo sư Châu Tâm Luân viết: “Giờ đây không còn
bọn tay sai đem máu của con em nhân dân đổi lấy đô la nữa thì cần phải tiết
kiệmtối đa số ngoại tệ mà dân phải lao động đổ mồ hôi mới đem về được cho quốc
gia… Vì vậy ngoài sự tiếp tay chánh quyền kiểm soát gian thương, chúng ta cũng
cầnkềm hãm bớt kẻ địch ở ngay trong lòng mình…”302.
Khi
trao cho Giáo sư Châu Tâm Luân nhiều trọng trách, Chính quyền nghĩ đơn giản ông
là người “dùng” được. Nhưng, cũng như nhiều trí thức Sài Gòn, ông đã không hành
xử như là một công cụ. Từ năm 1976, Giáo sư Châu Tâm Luân không được đứng lớp vì
kiến thức kinh tế của ông là “kinh tế tư bản”, tuy nhiên, ông vẫn còn được để
ngồi trong Hội đồng Khoa học của trường. Chỉ ít lâu sau, Đảng ủy trường nhận xét
ông muốn “tranh giành lãnh đạo với Đảng”.
Giáo
sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi ngạc nhiên, chế độ cũ hai lần giao chức cho tôi mà tôi
có màng tới đâu”. Nhưng té ra vấn đề không phải là “ghế”, mà là những ý kiến của
ông ở Hội đồng Khoa học luôn luôn khác với ý kiến của chi bộ. Trong một cuộc
họp, khi nghe ông Đỗ Mười thao thao nói về “hợp tác hóa”, về chủ trương phải đưa
những người bần cố nông lên làm lãnh đạo hợp tác và “phải đào tạo họ”, Giáo sư
Luân hỏi: “Nhà nước định đào tạo trong bao lâu?”. Ông Đỗ Mười nói: “Tình hình
gấp rút, đào tạo ba ngày”. Giáo sư Châu Tâm Luân nhớ lại: “Tôi bắt đầu ngao ngán
vì muốn thay đổi thì phải bắt đầu từ cái đầu mà… những ‘cái đầu’ thì như thế”.
Sau lần gặp ông Đỗ Mười, nhà kinh tế nông nghiệp Châu Tâm Luân được đưa về Viện
Khoa học Xã hội.
Không
chỉ có những đụng độ tại cơ quan. Ở Hội đồng Nhân dân, Giáo sư Châu Tâm Luân là
trưởng Ban Nông nghiệp. Trong một phiên họp toàn thể thảo luận về các chương
trình khoa học của Thành phố, sau khi nghe ông Luân tranh luận, một đại biểu
trong Hội đồng mặc quân phục đứng dậy xin ngưng cuộc cãi vã, và lớn tiếng: “Các
chuyên viên đã để ra rất nhiều thời giờ soạn thảo, đại biểu đó tư cách gì mà đòi
sửa qua sửa lại”. Ông Luân cố dằn lòng: “Tôi xin ngưng cuộc thảo luận, bởi như
vị đại biểu vừa nói, đã có các chuyên viên nghiên cứu cho chúng ta rồi thì chúng
ta chỉ còn là chuyên viên giơ tay thôi”. Chủ trì phiên họp, ông Mai Chí Thọ
không nói gì, chỉ yêu cầu biểu quyết. Nhìn thấy ông Luân không giơ tay, ông Mai
Chí Thọ hỏi: “Ai không chấp thuận?”. Ông Luân cũng không giơ tay, ông nói: “Toàn
thể chấp thuận, một phiếu trắng”.
Một
số cán bộ cách mạng tốt bụng bắt đầu lo lắng cho vị giáo sư trẻ tuổi này, một
trưởng Ban Đảng khuyên: “Tôi sáu mươi tuổi, người ta vẫn xem tôi như con nít,
phải ăn nói thận trọng lắm. Anh nhớ, anh chỉ mới hơn ba mươi tuổi”. Giáo sư Châu
Tâm Luân kể: “Tại diễn đàn của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôi đề nghị
phải áp dụng ‘kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước’. Ông Xuân Thủy
nghe, nói với tôi: ‘Anh phải có người đỡ đầu, anh về nói với Sáu Dân đi’. Tôi
trả lời ông Xuân Thủy: ‘Nếu tôi nói đúng thì các anh phải nghe chứ sao lại cần
người đỡ đầu?’.
Sau
đó, ông Mai Chí Thọ nhắc: ‘Cậu đúng, nhưng áp dụng như vậy thì phức tạp quá, làm
sao chúng tôi quản lý được. Muốn làm phải có những người như cậu. Mà nói thật
chúng tôi chưa thể tin hoàn toàn những người như cậu’”.Theo ông Luân: “Những năm
ấy, tôi chê ông Võ Văn Kiệt nhát, ‘xé rào’ là vá víu; phải ‘phá vỡ’ để áp dụng
kinh tế thị trường chứ không thể phá những đoạn rào. Ông Mai Chí Thọ nghe, nhắc:
‘Phải giữ chính quyền trước hết, chính sách sai thì còn sửa được chứ mất chính
quyền là mất hết’. Về sau tôi mới thấy ông Mai Chí Thọ đã nói rất thật lòng, họ
đã ngủ rừng hàng chục năm để có chính quyền, làm sao họ để mất cái mà họ vừa
giành được đó”.
Hai
vợ chồng Giáo sư Châu Tâm Luân đều học ở Mỹ. Trước năm 1975, gia đình ông đã
định cư ở một nước Bắc Âu, nhưng cả hai đều chọn con đường về nước. Sau năm năm
cố gắng chòi đạp trong chế độ mới, ông không tìm thấy một cơ may thay đổi nào.
Đầu năm 1979, ông vẫn còn được trả lời phỏng vấn các phóng viên nước ngoài,
nhưng càng về sau thì không thấy nhà báo nào gặp ông nữa. Giáo sư Châu Tâm Luân
nói: “Tôi bắt đầu có dự cảm bất ổn. Khi tình cờ gặp một vài phóng viên, nghe họ
nói mấy lần đến Việt Nam xin gặp tôi đều được chính quyền trả lời là Giáo sư
Châu Tâm Luân đang đi công tác xa. Tôi biết tôi đang dần dần bị cô lập”.
Dù
từng hoạt động trong các phong trào chống đối dưới chế độ Sài Gòn, ông Huỳnh Kim
Báu vẫn phải thừa nhận: “Trước 1975, mặc dù chính quyền bị coi là bù nhìn, nhưng
trí thức vẫn được trọng dụng, họ có quyền thực sự trong chuyên môn. Sau giải
phóng, chính quyền được nói là của mình nhưng trí thức gần như chỉ được dùng như
bù nhìn, trong khi đa phần họ là những người khảng khái”.
Năm
1977, có lần hệ thống nước máy của Thành phố bị đục, ông Võ Văn Kiệt mời các nhà
trí thức tới hiến kế. Nhiều người phát biểu, riêng ông Phạm Biểu Tâm ngồi im.
Ông Kiệt hỏi: “Sao vậy anh Tâm?”. Ông Phạm Biểu Tâm nguyên là chủ tịch Hội Sinh
viên Hà Nội trước 1945. Năm 1963, con gái Ngô Đình Nhu là Ngô Đình Lệ Thủy thi y
khoa đã bị ông đánh rớt dù bị nhà Ngô gây áp lực. Ông là một nhà giáo được sinh
viên kính nể. Ông Tâm được nói là rất quý ông Kiệt, nhưng có lẽ do quá bị dồn
nén, ông đứng dậy nói: “Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khỏe, vì cái gì
cũng đã có mấy anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh đâu phải chuyện tụi
tui”.
Một
thời gian sau, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trả lại chức hiệu phó. Trường sợ mang tiếng
không nhận, ông khóa phòng, giao chìa khóa, tự chấm dứt vai trò “chim kiểng” của
mình. Theo ông Võ Văn Kiệt, Thành ủy vẫn để Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hàng năm sang
Pháp dạy học. Trong một lần đi Pháp, ông ở lại luôn bên đó rồi viết thư về cho
ông Kiệt nói rằng, công việc nghiên cứu nhiều, ông cần phải ở nơi có phương tiện
cho ông làm việc, khi nào đất nước thực sự cần, ông sẽ về.
Còn
Giáo sư Châu Tâm Luân, nhân một buổi tối rủ ông Võ Ba tới nhà chơi, đã đưa cho
Võ Ba coi một tập đánh máy hai mươi trang về “tình hình kinh tế nông nghiệp miền
Nam”, rồi nói: “Võ Ba ơi, mình rất mừng vì bản báo cáo này của mình đã được Mặt
trận Tổ quốc đánh máy gởi đi. Hai lần trước thì họ không chịu đánh máy. Nhưng,
Võ Ba ạ, họ đánh sai hết, những thuật ngữ như ma trận họ đánh thành mặt trận ông
ạ”.
Mấy
hôm sau, Võ Ba chạy qua nhà Giáo sư Luân thì thấy cửa đóng, bên trong thấp
thoáng bóng mấy công an đến “chốt nhà”. Cho dù, sang tới Thái Lan ông bị các
thuyền nhân khác đánh rất đau, khi viết thư về, trả lời câu hỏi của ông Huỳnh
Kim Báu, “liệu vượt biên có phải là một quyết định sai lầm”, Giáo sư Châu Tâm
Luân vẫn cả quyết: “Không, Báu! Dù phải trả giá đắt, mình vẫn thấy đi là
đúng”.
Trong
số các trí thức miền Nam, ông Võ Văn Kiệt “xếp” Giáo sư Châu Tâm Luân vào hàng
“khó tính”. Tuy nhiên, ông kể: “Đến nhà Châu Tâm Luân mình rất thích vì ảnh
thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, có khi như búa bổ. Ảnh hy vọng khi đất nước hòa
bình, với sự phì nhiêu của đất đai miền Nam, sẽ có dịp thi thố giúp phát triển
nền nông nghiệp. Nhưng một thời gian sau, thấy cơ chế như thế thì không thể nào
đóng góp được”.
Một
người khác từng quen biết Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt nhưng cũng phải vượt biên
là Kỹ sư Phạm Văn Hai, giám đốc nhà máy dệt Phong Phú. Ông Phạm Văn Hai là người
đưa kỹ nghệ nhuộm vào miền Nam. Ông có hai người con, một người được đặt tên là
Phạm Chí Minh, một người là Phạm Ái Quốc. Sau ngày 30-4, ông Phạm Văn Hai vẫn
nhiệt tình tư vấn để phục hồi ngành dệt và nghiên cứu chất kích thích cây
cỏ.
Nhưng
năm 1977 ông quyết định “đi”. Vượt biên hai lần, cả hai lần đều bị bắt. Lần đầu
bị bắt ở Kiên Giang, Thành ủy lãnh. Lần hai, bị bắt ở thành phố, ông Võ Văn Kiệt
vào thăm, ông Hai nói: “Cho dù anh quan tâm nhưng như thế này thì không làm
được”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Những người như Kỹ sư Phạm Văn Hai, như Giáo
sư Châu Tâm Luân…, nếu chỉ khó khăn về cuộc sống họ sẽ vượt qua, nhưng nếu bị
đặt vào hoàn cảnh không thể đóng góp thì họ không chịu được. Tôi cũng không biết
làm gì hơn, chỉ đề nghị mấy ảnh đừng vượt biên nguy hiểm”.
Ông
Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Tôi tiếc đứt ruột khi để những anh em trí thức ấy ra đi,
nhưng biết là nếu họ ở lại thì cơ chế hiện thời cũng chưa cho phép mình sử dụng
họ”. Trước khi vượt biên, ông Dương Kích Nhưỡng, một công trình sư cầu cống,
thủy điện, nói với ông Võ Văn Kiệt: “Ước mơ của các anh rất đẹp, nhưng các anh
làm như thế này là không được. Đi đâu cũng nghe nói tới nghị quyết, làm cái gì
cũng chỉ theo tinh thần nghị quyết này, chủ trương kia thay vì theo pháp luật.
Trị nước mà bằng nghị quyết và chỉ thị chung chung thì không được”.
Tổng
Thư ký Hội Trí thức Yêu nước Huỳnh Kim Báu nhớ lại: ông Kiệt biết là các trí
thức bắt đầu vượt biên, ông gọi tôi lên và dặn “Nghe ngóng, nếu có anh em trí
thức bị bắt ở đâu, anh phải lãnh về”. Khi nhận được tin công an Bình Thuận bắt
giam Kỹ sư Dương Tấn Tước, ông Kiệt cấp giấy cho ông Báu ra Bình Thuận xin “di
án về Thành phố”. Ông Báu kể: “Công an Bình Thuận thấy giấy của Thành ủy thì cho
nhận ‘can phạm’. Nhưng khi anh Tước thấy tôi mừng quá định kêu lên, tôi đã phải
giả vờ làm mặt lạnh, bước tới, còng tay anh Tước. Dọc đường, tôi cứ phải làm
thinh mặc cho Kỹ sư Dương Tấn Tước ngơ ngác. Qua khỏi Bình Thuận, tôi mới mở
còng và giải thích: Công an Bình Thuận mà biết, người ta chụp đầu cả tôi”.
Đích
thân ông Kiệt cũng nhiều lần đến các trại giam để bảo lãnh các trí thức. Theo
ông Phạm Văn Hùng và Nguyễn Văn Huấn, hai người giúp việc thời đó của ông, hình
thức “xử lý” đối với những trí thức vượt biên của “Anh Sáu Dân” là kêu tụi tôi
đích thân đi làm lại hộ khẩu và sổ gạo cho họ. Nhưng phần lớn các trí thức đã ra
đi lặng lẽ. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi đi tất cả sáu lần. Lần bị giữ lâu
nhất là ở Rạch Giá, cả tháng trời. Nhưng tôi không khai mình là ai. Như bốn lần
trước, ở nhà cứ lo một cây vàng thì được thả”.
Có
những người không chịu nhờ Thành ủy, hoặc “lo” bằng vàng. Theo ông Huỳnh Kim
Báu, khi vượt biên bị bắt, Giáo sư Lê Thước đã tự sát.
!!!!!!!!!!!!!!
No comments:
Post a Comment