Saturday, May 31, 2014

Trung Quốc phản ứng trước cáo buộc của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ



Ông Vương bắt tay với ông Hagel bên lề Đối thoại Shangri-la - Ảnh: Reuters

(TNO) Ông Vương Quán Trung, Phó tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, ngày 31.5 lên tiếng chỉ trích việc Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel tố cáo Trung Quốc 'hành động đơn phương' gây bất ổn trên biển Đông.

>> Ông Tập Cận Bình: Trung Quốc sẽ đáp trả hành động 'khiêu khích' trên biển Đông
>> Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ: Trung Quốc 'hành động đơn phương' gây bất ổn biển Đông
Phát biểu tại diễn đàn Đối thoại Shangri-la ở Singapore ngày 31.5, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel tố cáo Trung Quốc có những hàng động đơn phương gây bất ổn ở biển Đông và cảnh báo Washington sẽ không làm ngơ nếu trật tự quốc tế bị đe dọa.
Cũng tại Đối thoại Shangri-la, ông Vương cho rằng lời cáo buộc của ông Hagle là vô căn cứ và đe dọa.
Trước đó, trong cuộc gặp gỡ với Thủ tướng Malaysia Najib Razak hôm qua 30.5 tại thủ đô Bắc Kinh, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tuyên bố Bắc Kinh sẽ không gây bất ổn ở biển Đông, nhưng cảnh báo sẽ phản ứng lại những hành động "khiêu khích" từ các quốc gia liên quan.
Ông Tập đưa ra phát ngôn trên giữa lúc căng thẳng trên biển Đông leo thang khi Bắc Kinh ngang ngược đưa giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng biển Việt Nam và tàu Trung Quốc còn hung hăng bắn vòi rồng, đâm húc tàu của các lực lượng chấp pháp Việt Nam tại khu vực đặt giàn khoan trái phép.
“Chúng tôi sẽ không bao giờ gây bất ổn, nhưng sẽ phản ứng lại bằng biện pháp cần thiết đối với những hành động khiêu khích từ các quốc gia có liên quan”, ông Tập nói, theo Reuters.
Ông Tập nói với ông Najib rằng tình hình ở biển Đông “nói chung là ổn định, nhưng có những dấu hiệu xuất hiện đáng để chúng ta quan tâm”.
Phúc Duy
>> Mỹ sẽ phản ứng lại những chiến thuật hung hăng của Trung Quốc
>> Mỹ lập khối đồng minh mới đáp trả sự hung hăng của Trung Quốc trên biển Đông
>> Chuyên gia Trung Quốc: Giàn khoan Hải Dương-981 sẽ được đưa đến Trường Sa

Thursday, May 29, 2014

SUY NGHĨ VỀ CÔNG THƯ CỦA ÔNG PHẠM VĂN ĐỒNG

SUY NGHĨ VỀ CÔNG THƯ CỦA ÔNG PHẠM VĂN ĐỒNG

Hoàng Mai

 Ngày 23.5.2014, trong buổi họp báo quốc tế về Biển Đông(1) phản đối giàn khoan HD-981 của China đặt bất hợp pháp vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, thì Chính phủ Việt Nam mới chính thức đề cập đến “Công thư của cựu Thủ tướng Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, ông Phạm Văn Đồng” (VNDCCH). Mặc dù cách đây khoảng 5 năm, với sự phổ biến của Internet, thì ít nhiều, giới trí thức và giới Blogger Việt Nam đã biết đến công thư này. Như vậy, cũng từ đây, toàn thể Nhân Dân Việt Nam mới biết đến cái công thư mà ông Phạm Văn Đồng đã ký gửi China, là có liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo là Hoàng Sa và Trường Sa, và đang có tranh chấp với China.
Kể từ hôm China đặt giàn khoan HD-981, qua báo chí của Đảng CSVN, ta nhận thấy quan hệ Việt Nam – China đang xấu đi từng ngày. Và chắc chắn, vào những năm tới đây, China sẽ công bố nhiều hồ sơ liên quan mà lãnh đạo cộng sản cao cấp Việt Nam đã ký với lãnh đạo cao cấp của Đảng cộng sản và Nhà nước China, chẳng hạn như là: Hội nghị Thành Đô, Hiệp định thỏa thuận biên giới Việt – Trung….  Bởi vì, như dự đoán của nhiều người, đã có rất nhiều thỏa thuận giữa hai đảng mà ngay cả đến đảng viên thuộc Ban chấp hành Trung ương của từng thời kỳ có liên quan cũng không biết được, huống chi nói đến toàn thể quốc dân, đồng bào.
Đây là lần đầu tiên, Nhà nước Việt Nam công bố và nói về tính không hợp pháp của công thư này (tạm gọi là “công thư  Phạm Văn Đồng”). Theo đó, trả lời phóng viên báo Vietnamnet, ông Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới, Bộ Ngoại giao Việt Nam, nói: 
“Xin khẳng định công thư của cố thủ tướng là văn bản ngoại giao. Giá trị pháp lý nằm trong nội dung công thư. Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa Trường Sa vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa. Giá trị công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi Trung Quốc lúc đó Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc quản lý Việt Nam cộng hòa, Trung Quốc chỉ là một bên tham gia. Không thể cho người khác cái gì mà bạn chưa có được. Vì thế công thư không có giá trị chủ quyền với Tây Sa, Nam Sa theo cách gọi của Trung Quốc”. 
Đã có rất nhiều bài viết của nhiều học giả khác nhau (người Việt Nam và người nước ngoài) lưu truyền trên mạng Internet nói về tính pháp lý của công thư này. Trong số đó, tôi chú ý đến bài viết mới đây của học giả Trương Nhân Tuấn. Theo đó, hôm 26.5.2014, trên Facebook của mình, ông Trương Nhân Tuấn đã có Thư ngỏ kính gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng, kiêm Bộ Trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, trong Thư ngỏ có đoạn:
“Điều này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận VNCH là đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận VNDCCH là đại diện nước VN duy nhất. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại. 
Thưa Thủ tướng, thưa Bộ trưởng 
Trên tinh thần tôn trọng « độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam » như qui định của các hiệp ước quốc tế này (mà các nước Mỹ, Trung Quốc, Anh, Pháp… đồng bảo trợ chúng), bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (VNCH hay VNDCCH), nếu có làm tổn hại đến chủ quyền, hay đe dọa toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị. 
Nhà cầm quyền Trung Quốc viện dẫn công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết nhằm ủng hộ tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc tháng 9 năm 1958, cho rằng nhà nước VNDCCH đã nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa (và Trường Sa). 
Điều này hiển nhiên không đúng 
Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoảng thời gian 1954-1973, vì có liên quan đến chủ quyền và đe dọa toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc”. (2).
Để làm rõ thêm những nội dung trên đây của học giả Trương Nhân Tuấn, đồng thời để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và để chứng minh “công thư Phạm Văn Đồng” là phi pháp, vô giá trị, xin có ý kiến như sau:
I. QUAN ĐIỂM CHUNG
1. Lịch sử là những sự kiện xẩy ra trong quá khứ, nó chỉ xẩy ra một lần duy nhất và không lặp lại. Vì vậy, không ai có thể xuyên tạc được lịch sử, và nếu có xuyên tạc, thì cũng không thể giấu được mãi mãi. Do đó, mọi người hãy tôn trọng và hãy chuẩn bị đối mặt với sự thật. Đó cũng là thể hiện sự lương thiện trong tư cách con người, cũng như không để bị chính lịch sử phán xét về sau.
2. Trong cuộc chiến cam go với Bắc Kinh xung quanh chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, thì những gì Bắc Kinh né tránh, thì Việt Nam cần khai thác tối đa.
3. Chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như lợi ích quốc gia là tối thượng. Vì thế, mọi thứ có thể phải hy sinh cho mục tiêu này. Không vì lý do phải bảo vệ bất kỳ một cá nhân nào, một tổ chức nào mà né tránh sự thật làm ảnh hưởng đến lợi ích Đất Nước. Vì suy cho cùng, một thể chế chính trị chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định, ngay cả Quốc gia, nếu không chống được giặc ngoại xâm thì cũng biến mất, bài học về Bách Việt, Chiêm Thành, Chân Lạp… là những ví dụ liên quan đến người Việt hiện nay.
II. NHỮNG LẬP LUẬN CỤ THỂ
1. Cả hai chính thể VNDCCH và VNCH không phải là Nhà nước hợp pháp.
Sau đây là trích đoạn về nội dung cơ bản của Hiệp định Geneve năm 1954(3):
“… Sông Bến Hảivĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc; Chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam. Khoản a, điều 14 ghi rõ: “Trong khi đợi tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, bên nào có quân đội của mình tập hợp ở vùng nào theo quy định của Hiệp định này thì bên ấy sẽ phụ trách quản lý hành chính ở vùng ấy.” 
Điều 6 Bản Tuyên bố chung ghi rõ: “Đường ranh giới quân sự tạm thời này không thể diễn giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ.”[15] 
Hiệp định Genève không có điều khoản nào quy định chi tiết về thời điểm cũng như cách thức tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam-Bắc Việt Nam. Nhưng Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève ghi rõ cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7/1956”.
Từ yêu cầu (nói trên) của Hiệp định Geneve, thì có thể khẳng định: hai “Nhà nước” là VNDCCH và Quốc gia Việt Nam (sau này là VNCH) là hai thể chế tạm thời của một Việt Nam thống nhất. Sự tồn tại của hai Nhà nước tạm thời này (đến ngày 20.9.1977 khi Việt Nam thống nhất có tên là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gia nhập LHQ) nằm ngoài những dự đoán theo yêu cầu của Hội nghị Geneve. Và như vậy, cả VNDCCH và VNCH, không đại diện cho một nước Việt Nam thống nhất. Và đúng như khẳng định trong trích dẫn trên đây của học giả Trương Nhân Tuấn.
Thực tế cũng chứng minh rằng, cả hai thực thể VNDCCH và VNCH không được công nhận là thành viên Liên Hợp quốc vào những năm đó.
Một khi không đại diện cho một nước Việt Nam thống nhất, thì mọi tuyên bố, ký kết với nước ngoài về chủ quyền lãnh thổ là vô giá trị. Theo tinh thần đó, Công thư của ông Phạm Văn Đồng gửi China là vô giá trị vì không có tính pháp lý, không đại diện cho Việt Nam thống nhất theo tinh thần Hiệp định Geneve.
Nói một cách khác, VNDCCH không phải là nhà nước hợp pháp đại diện cho Việt Nam, vì vậy, công thư của cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng là không hợp pháp, và vì vậy, không có giá trị pháp lý.
2. Những gì Bắc Kinh “né” không nhắc đến, thì Việt Nam lại càng phải chú ý để làm rõ.
Cũng trên Facebook của mình, ngày 27.5.2014, học giả Trương Nhân Tuấn viết:
“… Nếu để ý, lập luận của TQ từ trước đến nay, hoặc qua các bài nghiên cứu của các học giả TQ, họ luôn cho rằng VNDCCH là « một quốc gia độc lập, có chủ quyền ». Để ý, họ không bao giờ nhắc đến VNCH hay các hiệp định Genève 1954 hay Paris 1973”.  
Không cần phải giải thích gì thêm, cùng với sự lập luận ở điểm (1) nói trên, thì nội dung vừa trích dẫn trên đây, người Việt sẽ có thêm những góc nhìn để tự tin trong quá trình đấu tranh đòi lại Hoàng Sa đã bị China xâm lược, cưỡng chiếm bất hợp pháp.
 3. Vài suy nghĩ về Hội nghị San Francisco tháng 9/1951
Có thể có người đặt câu hỏi rằng, nếu Quốc gia Việt Nam không phải là hợp pháp, thì phát biểu của Thủ tướng Trần Văn Hữu, liệu có giá trị? Xin trả lời như sau: (4)  
“Theo lời mời của Chính phủ Hoa Kỳ, với tư cách là thành viên của khối Liên hiệp Pháp, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam đã tham dự Hội nghị. Ngày 7-9-1951, phát biểu tại Hội nghị, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam, Thủ tướng Trần Văn Hữu nêu rõ: “Chúng tôi cũng sẽ trình bày ngay đây những quan điểm mà chúng tôi yêu cầu Hội nghị ghi nhận (chứng nhận)…”). Về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tuyên bố của phái đoàn Việt Nam khẳng định: “Và cũng vì cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”.
Nên nhớ là, trong Hội nghị này có 51 quốc gia tham dự, trong đó có cả China. Chính phủ Quốc gia Việt Nam có vinh dự được Chính phủ Hoa Kỳ mời, cho dù không có tính pháp lý về mặt nhà nước như đã nói trên đi chăng nữa, nhưng những phát biểu trên đây của Thủ tướng Trần Văn Hữu, đại diện cho Quốc gia Việt Nam, và “Lời tuyên bố đó đã được ghi vào biên bản của Hội nghị và trong tất cả 51 phái đoàn tham dự, không có phái đoàn nào phản đối hay bảo lưu với tuyên bố này” (5). Đây là một thời khắc lịch sử vô cùng quan trọng và may mắn của Dân tộc Việt Nam.
III. KẾT LUẬN
Bằng việc công nhận một sự thật lịch sử, rằng: Cả hai chính thể VNDCCH và VNCH không phải là Nhà nước hợp pháp, độc lập, có chủ quyền, người Việt Nam sẽ đơn giản hóa đi rất nhiều trong cuộc chiến pháp lý với Bắc Kinh trong việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Giả sử có một câu hỏi được đặt ra: “Vậy, VNCDCH và VNCH là gì trong thời gian đến 30.4.1975?”, câu trả lời là: Đây là hai tổ chức khác nhau về quan điểm tranh giành nhau về quyền lực, bên nào thắng thì bên đó sẽ thống nhất quốc gia. Trong thời gian một bên chưa thắng, hoặc chưa thoả thuận để thống nhất quốc gia, thì mọi tuyên bố về đối ngoại của một trong hai bên chỉ là tuyên bố của phe nhóm đó nhằm tìm sự ủng hộ từ bên ngoài mà thôi. Không đại diện cho một Việt Nam Thống nhất mà Hiệp định Geneve yêu cầu.
27.5.2014
H.M

một vết nhơ không bao giờ rửa sạch...

» » Một sự thật hết sức đau đớn, một vết nhơ không bao giờ rửa sạch...

Chia sẻ :

Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa

Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội uỷ viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua quyết định phê chuẩn về tuyên bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Quyết Định

* Một: Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc

* Hai: Lãnh hải của Trung Quốc đại lục và duyên hải của các đảo được tính theo đường thẳng nối liền những điểm mốc ven bờ làm đường biên cơ sở, thuỷ vực từ đường biên cơ sở này hướng ra ngoài 12 hải lý là lãnh hải của Trung Quốc. Phần nước thuộc đường biên cơ sở này hướng vào bên trong, bao gồm vịnh Bột Hải, phần trong hải vực Quỳnh Châu, đều là phần nội hải của Trung Quốc. Các đảo thuộc đường biên cơ sở này hướng vào trong, bao gồm đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, đảo Mã Tổ, đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khưu, đảo Kim Môn lớn nhỏ, đảo Nhị Đảm, đảo Đông Định đều thuộc về các đảo thuộc nội hải của Trung Quốc.

* Ba: Tất cả phi cơ và thuyền bè quân dụng của ngoại quốc, chưa được chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho phép, không được tiến nhập vào lãnh hải vào không gian trên lãnh hải. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào vận hành tại lãnh hải của Trung quốc, phải tôn trọng pháp lệnh hữu quan của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

* Bốn: Dựa trên nguyên tắc quy định 2, 3 áp dụng cho cả Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc. Đài Loan và Bành Hồ địa khu hiện nay đang bị Mỹ dùng vũ lực xâm chiếm. Đây là hành vi phi pháp xâm phạm chủ quyền và sự toàn vẹn của lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Bành Hồ đang chờ đợi để thu hồi, chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa sử dụng tất cả những phương pháp thích đáng tại một thời điểm thích đáng để thu phục những khu vực này, đây là chuyện nội bộ của Trung Quốc, không cho phép ngoại quốc can thiệp.

---------

Xét về cả nội dung và ý chí trong công hàm của Phạm Văn Đồng thì coi như Việt Nam dân chủ cộng hòa đã hai tay dâng biển đảo cho Trung Quốc năm 1958 bằng việc Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Một sự thật hết sức đau đớn, một vết nhơ không bao giờ rửa sạch...


FB Bát Trảm Đao

Xin mời đọc một bài hay.

Xin mời đọc một bài hay.


Xin mời đọc một bài hay.

 
G.S LÊ XUÂN KHOA


Ông là nhà giáo chuyên nghiệp. Năm 1950, ông chính thức vào nghề dạy học ở Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Ðại Học Văn Khoa và Sư Phạm năm 1953, ông vào Sài Gòn dạy tại trường trung học Petrus Ký và viết sách giáo khoa cho Sở Tu thư, Bộ Giáo Dục.

Năm 1960, ông được học bổng của chính phủ Pháp theo học tại Ðại Học Sorbonne và ghi danh luận án Tiến sĩ Triết Học, đề tài: "Le Boudhisme dhyana au Vietnam".

Ông đã sang Ấn Ðộ nhiều lần để nghiên cứu Triết Học Ấn Ðộ.Ông giảng dạy Triết học Upanishad tại Ðại học Văn Khoa Sài Gòn và Văn Minh Việt Nam tại Ðại Học Ðà Lạt, Minh Ðức và Vạn Hạnh.
Chức vụ cuối cùng của ông ở Việt Nam là Phó Viện Trưởng Ðạihọc Sài Gòn.

Ông sang Hoa Kỳ năm 1975 và bắt đầu hoạt động ngay về tị nạn. Với tư cách chủ tịch Trung tâm Tác Vụ Ðông Nam Á (SEARAC), Ông vận động cho người tị nạn Ðông Dương với Chính Phủ và Quốc hội Mỹ, các chính phủ Hong Kong và Ðông Nam Á, Cao Ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc.

Ông được Phụ tá Ngoại trưởng Robert L. Funseth tuyên dương cùng với bà Khúc Minh Thơ và Mục sư Lý Công Thuận là đã có công đóng góp cho thỏa hiệp Việt Mỹ về vấn đề định cư cựu tù nhân chính trị. Ông cũng là người khởi xướng chương trình định cư người Việt hồi hương ở Hoa Kỳ (ROVR).

Năm 1993, ông được Bộ Ngoại Giao mời tham gia phái đoàn Mỹ dự Hội Nghị của Ủy Hội về An Ninh và Hợp tác ở Châu Âu (Commission on Security and Cooperation in Europe, CSCE) tại thủ đô Ba Lan để thuyết trình về vai trò của các tổ chức ngoài chính phủ trong công cuộc tái thiết và phát triển.

Năm 1996, ông được mời làm giáo sư thỉnh giảng tại trường Cao học về Nghiên cứu Quốc tế (SAIS) thuộc Ðại học Johns Hopkins ở Washington, D.C. Năm 2001, ông được nhận làm học giả ngoại trú của Học viện về Chính Sách Quốc Tế (FPI) cũng thuộc Ðại học Johns Hopkins, và từ đó chỉ chuyên tâm vào việc nghiên cứu và viết sách,
GS Lê Xuân Khoa
Posted by adminbasam on 14/05/2014

Việt Nam đang đứng trước một khúc ngoặt khó khăn, một tình trạng oái oăm chưa từng thấy trong lịch sử vì chính quyền có thể thuận theo ý nguyện của nhân dân hay ngoan cố duy trì chế độ độc tài tàn bạo dù có phải cúi đẩu tuân phục quân xâm lược. Nhưng nhân dân đã đứng lên với khí thế không có lực lượng phản động nào ngăn cản nổi. Cầu mong cho những đầu óc u mê hãy bừng tỉnh để tránh khỏi kết cục bi thảm và muôn đời bị lịch sử và nhân dân nguyền rủa.

--------------------

Ngày 1 tháng 5, 2014 Trung Quốc xâm phạm chủ quyền trên biển của Việt Nam qua vụ đặt giàn khoan khổng lồ 981 tại Thềm lục địa và Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam. Sự kiện này gây phản ứng mạnh mẽ của nhân dân trong nước và dư luận quốc tế sôi nổi. Theo dõi tình hình hai tuần qua, chúng ta thấy có mấy điểm cần đặc biệt quan tâm:

1. TT Nguyễn Tấn Dũng đã thất bại tại hội nghị ASEAN cấp cao ngày 11.5 khi kêu gọi các nước ASEAN “lên tiếng phản đối hành động vi phạm nghiêm trọng của Trung Quốc và ủng hộ yêu cầu hợp pháp, chính đáng của Việt Nam”. Bản Tuyên bố chung ASEAN cũng như của Chủ tich hôi nghị Thein Sein chỉ kêu gọi các bên sử dụng biện pháp hòa bình và không làm gia tăng căng thẳng trên Biển Đông, đồng thời cần sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử (COC).

2. TBT Nguyễn Phú Trọng muốn sang Bắc Kinh gặp TBT Tập Cận Bình nhưng lời yêu cầu bị từ chối (báo New York Times, 12.5) Trong khi đó, Trung Quốc leo thang cảnh cáo Viêt Nam không được cản trở hoạt động của giàn khoan và phài bảo vệ tài sản và sự an toàn của kiều dân và công nhân TQ ở Việt Nam. Dù đã có thật sự nổ súng hay chưa, thực tế là lãnh đạo Bắc Kinh đã xé bỏ các thoả thuận năm 2011 (với TBT Nguyễn Phú Trọng) và 2013 (với CT Trương Tấn Sang) cam kết giải quyết hoà bình các vấn để giữa hai nước.

3. Phản ứng của Hoa Kỳ không khác gì thái độ của ASEAN. Ngày 13.5 Ngoại trưởng John Kerry vẫn chỉ bày tỏ sự “quan tâm sâu sắc” tuy có nhân xét thêm là hành động của TQ có tính “khiêu khích” . Lập tức ông bị đồng nhiệm TQ Vương Nghị khuyến cáo là hãy “thận trọng trong lời nói và hành động”. Trong khi đó thì Tổng Tham mưu trưởng quân đội TQ Phòng Phong Huy sang Washington họp bàn về “hợp tác quân sự mật thiết hơn” và chắc chắn sẽ thảo luận về biến cố giàn khoan. Người ta có thể nghi ngờ là Hoa Kỳ có thể đã hết kiên nhẫn với Việt Nam và có thể đồng ý với một đề nghị đổi chác với Trung Quốc. Lần này thì không ai có thể chỉ trích Hoa Kỳ bán đứng Việt Nam vì chính Việt Nam đã từ chối hợp tác với Hoa Kỳ.

Lãnh đạo Hà Nội đang lâm vào tình trạng bế tắc chưa biết xoay sở ra sao vì thình lình bị mất chỗ dựa an toàn là Trung Quốc. Phương châm “16 chữ vàng” và tinh thần “4 tốt” được TQ bày ra cho VN như những câu thần chú thiêng liêng thì nay lại bị chính lãnh đạo TQ ném vào sọt rác. Bởi thế, đã hai tuần qua mà Tổng Bí Thư, Chủ tịch Nước và Chủ tịch Quốc hội đều im hơi lặng tiếng. Chỉ có Thủ tướng là lên tiếng tố cáo TQ ở hội nghị ASEAN, nhưng quan điểm bất đồng của ông Dũng với ba người trong “Tứ trụ” vẫn còn là một bí ẩn chưa được tiết lộ. Hội nghị Trung ương số 9 diễn ra đến hôm nay đã bảy ngày cũng làm như không biết đến biến cố giàn khoan. Chính quyền không còn dám ngăn cấm và đàn áp biểu tình nhưng lại dùng mưu mẹo tổ chức “biểu tình quốc doanh” để lái nhân dân theo định hướng của nhà nước, nhưng thất bại.

Trong khi đó, vấn đề quan trọng nhất đối với trí thức và nhân dân yêu nước là làm sao thực hiện được cả hai mục tiêu bảo vệ tổ quốc và dân chủ hoá chế độ mà không gây bạo động và hỗn loạn, vì như thế chỉ làm lợi cho TQ và thêm đau khổ cho nhân dân. Chưa kể còn phải giải quyết nhiều vấn đề khác, nhất là về kinh tế, xã hôi nếu bỗng nhiên bị TQ làm gián đoạn.

Ngày 13.5, trên Tuần Việt Nam có một bài viết rất hay của tác giả Lê Quang Bình, “Việt Nam thoát thế kẹt ở Biển Đông thế nào?” Tôi liên tưởng đến giải pháp tương tự tôi đã đề xuất trong bài “Việt Nam phải làm gì sau hai cuộc hội đàm thượng đỉnh Việt-Trung và Việt-Mỹ” trên boxitvn (tháng 8, 2013).

Trong phần kết “Sinh lộ cho Việt Nam” tôi còn có nhận xét:
“Hoa Kỳ không thể chần chờ được nữa vì trước những đe doạ mới của Bắc Kinh ở Biển Hoa Nam (Biển Đông) và Biển Hoa Đông, các nước trong khu vực đang ráo riết phòng vệ chiến tranh và Hoa Kỳ cần phải có những động tác thích hợp. Lãnh đạo Việt Nam không nên tiếp tục câu giờ, nhất là không nên sai lầm nghĩ rằng Mỹ cần ta thì ta có thể bắt chẹt Mỹ phải nhượng bộ về vấn đề quyền con người. Thật ra Việt Nam cần Mỹ hơn và Mỹ luôn luôn có những lựa chọn chiến lược khác do những nhóm đặc nhiệm (task forces) của Hội đồng An ninh Quốc gia, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng nghiên cứu và phối hợp hoạt động.
“Suốt chiều dài bốn nghìn năm lịch sử, Việt Nam không có một triều đại hay một chính phủ nào chịu dâng nước cho ngoại bang vì muốn duy trì quyền lợi của dòng họ hay phe đảng của mình. Việt Nam ngày nay đang đứng trước một khúc quanh lịch sử và một tình huống chính trị chưa bao giờ thấy, vì Tổ quốc mất hay còn lại tuỳ thuộc vào sự chọn lựa của một Đảng cầm quyền: mất nước để duy trì chế độ độc tài, hay giữ được nước nhưng phải dân chủ hoá chế độ.”

Trước đó, trong bài “Việt Nam sẽ ra sao sau bài diễn văn Shangri-La? (tháng 6, 2013) tôi cũng đã bình luận về quan điểm độc lập và trung lập của TT Nguyễn Tấn Dũng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ:
“Thủ tướng Việt Nam đã cho thấy một bước ngoặt quan trọng về chính sách đối ngoại của Hà Nội: tìm cách thoát khỏi sự khống chế của Bắc Kinh và gia tăng hợp tác với Hoa Thịnh Đốn. Có thể nói đây là chính sách “xoay trục sang Hoa Kỳ” (pivot to the U.S.) của chính quyền Việt Nam. Điều này không có nghĩa là Việt Nam muốn tìm một đồng minh quân sự để chống lại Trung Quốc mà chỉ là một quyết định khôn ngoan để bảo vệ độc lập và chủ quyền của mình. Trong phần cuối bài diễn văn, ông Dũng đã khẳng định là “Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước khác.” Điều này hé mở khuynh hướng về quy chế trung lập có thể sẽ được các nước ASEAN chấp thuận như một chọn lựa thích hợp với “vai trò trung tâm trong nhiều cơ chế hợp tác đa phương.”

Mặc dù nhấn mạnh vào thói “nói một đằng, làm một nẻo” của các nhà lãnh đạo CS, tôi vẫn nhắc nhở Thủ tướng Dũng “cần phải lấy được niềm tin đã mất trong nhân dân” và để được như vậy, ông Dũng “cần phải có một hành động đột phá thứ nhì, xoay chuyển chính sách đối nội từ độc tài sang dân chủ.” (Hành động đột phá thứ nhất như đã nói ở trên là xoay chuyển chính sách đối ngoại, từ lệ thuộc vào Trung Quốc sang hợp tác với Hoa Kỳ).

Lãnh đạo Việt Nam đã nhiều lần để lỡ thời cơ đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc. Lãnh đạo Việt Nam vẫn đề cao chủ trương “làm bạn với tất cả” nhưng thực tế Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam rất cô đơn vì không có bạn, cũng không có đồng minh. Ngay cả quan hệ “vừa là đồng chí vừa là anh em” đối với Trung Quốc cũng đã bị lãnh đạo Bắc Kinh đính chính “chỉ là đồng chí chứ không là đồng minh”. Cơ hội “thoát Trung” lần này cũng để quá trễ nhưng vẫn còn hi vọng nếu lãnh đạo Việt Nam thật sự thức tỉnh và quyết tâm đồng hành với nhân dân.

Về phía trí thức và nhân dân, các nhóm công dân của xã hội dân sự mà hiện nay đã lên tới trên 20 tổ chức, cần cử ra những đại diện ngồi lại với nhau để thành lập một hình thức hợp tác tạm gọi tên là Liên minh Cứu nguy Tổ quốc hay một danh xưng khác thích hợp hơn. Các nhóm trong Liên minh này đều độc lập và bình đẳng, hợp tác với nhau trên cơ sở mẫu số chung, đại đồng tiểu dị. Đại diện các nhóm sẽ bầu ra một Hội đồng Điều hành của Liên minh theo lề lối dân chủ, căn cứ trên những điều kiện thích hợp, như hiểu biết, kinh nghiệm, khả năng tổ chức, giao thiệp, v.v. Cũng cần có một bản nội quy ấn định rõ sứ mệnh và cấu trúc của Liên minh , vai trò và trách nhiệm của các nhóm thành viên, nhất lả thể thức lảm việc cho có hiệu quả và ngăn ngừa được sự lạm dụng quyền lực của một cá nhân hay phe nhóm nào.

Liên minh cần công bố một bản nhận định thật bình tĩnh và sáng suốt về tình hình căng thẳng với Trung Quốc và đưa ra những nguyên tắc cơ bản cho việc giải quyết một cách thực tế và thích hợp. Bản nhận định và đề nghị sẽ kêu gọi chính quyền đồng hành với nhân dân thông qua đối thoại, tham khảo và hợp tác trong việc hoạch định và thực thi những chính sách mới về đối nội và đối ngoại, đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân và được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Trước tiên là chính quyền cần thả ngay những người đã bị bắt và kết án chỉ vì bày tỏ lòng yêu nước. Lời kêu gọi cũng được hướng đến các cấp trong hệ thống hành chính , quân đội, công an trên toàn quốc,với mục đích đoàn kết toàn dân. Như vậy dân tộc mới có đủ sức mạnh bào vệ độc lập và chủ quyền đât nước đồng thời hậu thuẫn cho sự chuyển đổi thể chế từ độc tài toàn trị sang dân chủ đa nguyên đa đảng một cách trật tự, ôn hoà.

Tất nhiên, các tổ chức Xã hội Dân sự vẫn phải cảnh giác và chuẩn bị ứng phó với những diễn biến phức tạp bất ngờ có thể dẫn đến rối loạn hay bạo động do nhân dân tự phát hay do những phần tử phá hoại khích động, hay do lực lượng an ninh đàn áp.

Việt Nam đang đứng trước một khúc ngoặt khó khăn, một tình trạng oái oăm chưa từng thấy trong lịch sử vì chính quyền có thể thuận theo ý nguyện của nhân dân hay ngoan cố duy trì chế độ độc tài tàn bạo dù có phải cúi đẩu tuân phục quân xâm lược. Nhưng nhân dân đã đứng lên với khí thế không có lực lượng phản động nào ngăn cản nổi. Cầu mong cho những đầu óc u mê hãy bừng tỉnh để tránh khỏi kết cục bi thảm và muôn đời bị lịch sử và nhân dân nguyền rủa.

Lê Xuân Khoa
14.05.2014

VÀI ĐÁNH GIÁ BAN ĐẦU VỀ CUỘC XUNG ĐỘT HIỆN NAY GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

VÀI ĐÁNH GIÁ BAN ĐẦU VỀ CUỘC XUNG ĐỘT HIỆN NAY GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC


Trần Ngân
Tác giả gởi cho viet-studies ngày 18-5-14
Trung Quốc kéo giàn khoan Hải Dương vào vùng biển Việt Nam từ ngày 2/5/2014, tới nay đã được hơn 2 tuần và trong hơn 2 tuần đó, đã có quá nhiều sự kiện diễn ra ở Việt Nam, đủ để đưa ra một số nhận định ban đầu về vấn đề lúc đầu có vẻ tưởng như không lớn lắm này. Lý do Trung Quốc đưa giàn khoan vào Việt Nam đã được nhiều người phân tích, ở đây sẽ không nhắc lại nữa. Trong bài này sẽ chỉ tập trung phân tích những ảnh hưởng tới kinh tế xã hội Việt Nam hiện tại và tương lai qua sự kiện này.

1.  Những tác động lớn tới kinh tế xã hội Việt Nam từ khi Trung Quốc đưa giàn khoan vào Việt Nam

Từ khi Trung Quốc chính thức thông báo đưa giàn khoan vào Việt Nam ngày 2/5 thì ở Việt Nam đã xảy ra nhiều biến động lớn trên nhiều mặt kinh tế-xã hội, tập trung vào tuần lễ từ 8 – 15/5.

-  Thị trường chứng khoán sụt giảm: Tính chung trong nửa đầu tháng 5/2014 thị trường chứng khoán mất sạch số điểm tăng trong 4 tháng trước đó. Chỉ trong 8 ngày kể từ ngày 8/5, TCCK mất 6 tỷ USD giá trị vốn hóa trong đó chỉ riêng ngày 8/5 mất 3 tỷ USD. Đây là con số sụt giảm lớn nhất trong một ngày từ trước tới nay và ngay lập tức Ủy ban Chứng khoán nhà nước phải ra thông báo trấn an tâm lý nhà đầu tư. (http://www.anninhthudo.vn/Kinh-doanh/Thu-3-den-toi-va-bai-hoc-nhay-lau/551147.antd)

-  Giá USD và và giá vàng biến động mạnh: Giá vàng và giá USD biến động rất mạnh (giá vàng tăng hơn 1 triệu đồng/lượng trong 1 tuần, giá USD cũng tăng kịch trần) do nhiều người dân lo sợ đã đi rút tiền từ ngân hàng để mua vàng và USD. Ngân hàng nhà nước cũng ngay lập tức phải ra thông báo trấn an người dân.

-   Biểu tình gây bạo động ở một số địa phương: Chỉ riêng ở Bình Dương, “theo báo cáo của LĐLĐ tỉnh Bình Dương, hiện có gần 700 DN bị thiệt hại, trong đó có 365 DN bị thiệt hại nặng. Đặc biệt, 27 DN bị đốt cháy gây thiệt hại nghiêm trọng. Số DN phải tạm ngừng hoạt động là hơn 800; CN bị tạm thời ngừng việc trên 290.000 người. Ông Lê Thành Nhơn - Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Bình Dương, cho biết thêm có khoảng hơn 100.000 CN phải nghỉ việc dài hạn hay mất việc do DN bị cháy.”. (http://laodong.com.vn/chinh-tri/binh-duong-hai-ngay-sau-bao-201489.bld)Còn tại Đồng Nai: “Đồng Nai vẫn có khoảng 300 DN Đài Loan, Trung Quốc ngừng hoạt động để xem xét tình hình và tính toán lại khả năng kinh doanh và 140.000 người lao động phải nghỉ việc” (http://songmoi.vn/xa-hoi-thoi-su/doanh-nghiep-ton-hai-cong-nhan-mat-viec-sau-vu-gay-roi-qua-khich). Bạo động ở Hà Tĩnh làm 2 người chết và gần 150 người bị thương.

2.  Một số đánh giá từ những sự kiện này

Dưới đây là một số đánh giá sơ bộ của tác giả từ những sự kiện này:

-  Những sự biến động mạnh kể trên chỉ trong một thời gian ngắn cho thấy Việt Nam hiện có quá nhiều điểm yếu và quá nhiều mầm mống bất ổn nghiêm trọng đang tiềm ẩn trong các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Những điểm yếu và những mầm mống bất ổn này đã được nhận diện và nhắc tới nhiều nhưng chắc nhiều người cũng không nghĩ rằng nó có thể bộc lộ ra một cách mạnh mẽ thế chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn như vậy. Kinh tế chưa thoát khỏi suy thoái kéo dài khiến tâm lý người dân bất ổn, thiếu niềm tin vào nền kinh tế và khả năng điều hành của chính phủ (thị trường vàng, USD và chứng khoán là nơi biểu thị niềm tin rõ ràng nhất). Đời sống công nhân thường được đảng tôn vinh như “giai cấp tiên phong” thì chỉ ở mức gần như dưới đáy xã hội. Thu nhập của đại đa số công nhân, đặc biệt là ở các doanh nghiệp FDI chỉ giúp họ tồn tại một cách chật vật chứ không phải là một cuộc sống đúng nghĩa và có tương lai để hy vọng. Họ cũng không có người đại diện là “công đoàn” đúng theo nghĩa của nó để nói lên tiếng nói và đấu tranh cho nguyện vọng của mình. Cuộc bạo động vừa qua, dù có tác nhân quan trọng là bị kích động và bị ảnh hưởng bởi tâm lý đám đông cũng không che giấu được một điều rằng công nhân cũng rất bức xúc về đời sống của họ. Rõ ràng là ý thức “giác ngộ” về “vai trò lịch sử của giai cấp công nhân” của họ không hề cao như đảng vẫn tuyên truyền.

Trong những bất ổn toàn diện vừa qua, người được hưởng lợi lớn nhất tất nhiên là Trung Quốc. Việc đưa giàn khoan vào lãnh hải Việt Nam đối với Trung Quốc chỉ là một động tác nhẹ nhàng nhưng đã gây chấn động nhiều mặt tới tình hình kinh tế-xã hội của Việt Nam. Chỉ qua bài test nhẹ nhàng này, Trung Quốc đã làm lộ ra quá nhiều điểm yếu ở Việt Nam và chắc chắn sắp tới nếu cần, Trung Quốc sẽ biết cần tập trung vào đâu để gây bất ổn cho Việt Nam. Trung Quốc là bậc thầy trong việc này. Trung Quốc đã hiểu rằng họ có thể dễ dàng tác động gây mất ổn định tình hình nội bộ để làm chính quyền Việt Nam không thể dồn toàn lực đối phó với họ được. Khi đã biết điểm yếu và khả năng của đối thủ thì Trung Quốc sẽ càng có những bước đi mạnh dạn trong việc xâm phạm chủ quyền. Đây chính là nguy cơ ngắn hạn nổi bật nhất.

- Một vấn đề nữa dù mới chỉ là nghi vấn nhưng có lẽ Trung Quốc đã cài cắm được nhiều người vào Việt Nam, không loại trừ cả các vị cao cấp trong lực lượng an ninh. Nhiều người cảm thấy rất khó hiểu là tại sao an ninh Việt Nam thường rất hiệu quả trong việc chống biểu tình của các thành phần đối lập lại tỏ ra quá lơi lỏng trong các vụ bạo động lần này. Khởi đầu cho cuộc bạo động đầu tiên ở Bình Dương còn có thể biện minh được là do xảy ra bất ngờ nhưng nó kéo dài trong tới 2 ngày và ở quy mô rất lớn, đốt phá tới 700 doanh nghiệp mà sự can thiệp lại rất yếu ớt. Qua ngày hôm sau, đáng lẽ cơ quan chức năng phải thừa hiểu rằng nó sẽ có thể lan qua các KCN ở Đồng Nai nhưng họ cũng không có biện pháp nào đủ mạnh để ngăn cản nó lan sang đó. Rồi sau khi bạo động đã xảy ra ở Bình Dương, Đồng Nai mà vẫn để biểu tình xảy ra ở Hà Tĩnh dù lúc đầu chỉ là một nhóm nhỏ khoảng 40 người là điều hết sức khó hiểu. Rất có thể trong đám biểu tình bạo động có sự giật dây của Trung Quốc vì biểu tình lan rất nhanh và khá chuyên nghiệp nhưng bản thân cơ quan an ninh cũng có thể đã bị tác động nên phản ứng rất thiếu hiệu quả.

- Trong hơn một tuần đầy biến cố vừa qua đã làm lộ ra một điểm yếu chết người trong bộ máy lãnh đạo chóp bu của Việt Nam là sự phản ứng quá chậm, quá kém hiệu quả trong những tình huống khẩn cấp. Việc các lãnh đạo cấp cao chậm lên tiếng khi Trung Quốc đưa giàn khoan vào Biển Đông còn có thể được biện minh là vì lý do chính trị. Tuy nhiên, khi bạo động lan rộng đã gây rúng động xã hội mà cũng không thấy lãnh đạo chính phủ cấp bộ trưởng nào lên tiếng. Ông TBT thì thản nhiên đọc một bài diễn văn bế mạc dài lê thê của Hội nghị TW 9 về những vấn đề hết sức xa xôi như “xây dựng con người văn hóa XHCN” rồi “chống diễn biến hòa bình”.  Rõ ràng bộ máy lãnh đạo cao cấp đã đã thiếu chuẩn bị trước nguy cơ thù trong giặc ngoài và đối phó với sự bất ổn về kinh tế-xã hội trên diện rộng. Nếu nhìn vào cơ cấu Bộ Chính trị có thể thấy trong 16 Ủy viên BCT khóa XI thì có tới 5 người: Nguyễn Phú Trọng, Đinh Thế Huynh, Phạm Quang Nghị, Tòng Thị Phóng, Tô Huy Rứa là xuất thân từ lĩnh vực tuyên truyền, dân vận. Ai ở Việt Nam cũng hiểu những người làm việc trong những lĩnh vực này nói chung bảo thủ, kiến thức cũ kỹ, nhìn thế giới theo cách đơn chiều địch-ta,… Nói chung là tầm tri thức của họ tụt xa so với mức trung bình của xã hội Việt Nam chứ đừng nói là so với những chính trị gia lão luyện của Trung Quốc. Điều này cho thấy ban lãnh đạo tối cao của Việt Nam hiện nay đặt ưu tiên cho việc tuyên truyền và giữ ổn định chính trị nội bộ hơn là có khả năng đối phó với các bất ổn mang tính chiến lược từ bên ngoài.

Việc tê liệt về mặt chính trị ở Việt Nam trong thời gian gần đây không phải là vấn đề mới. Trong quản lý kinh tế, trong vài năm gần đây, lãnh đạo đã gần như tê liệt trong các cải cách cấu trúc mang tính dài hạn. Phe bảo thủ đã thành công trong việc kéo lùi lại quá trình đổi mới bằng những việc như đưa qui định Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo vào trong Hiến pháp 2013. Nhưng trong những tình huống khẩn cấp thì đòi hỏi một cơ cấu lãnh đạo hiệu quả hơn cơ chế lãnh đạo tập thể hiện nay rất nhiều.

3.  Con đường của Việt Nam sắp tới

Như vậy, trong thời gian tới, Việt Nam sẽ phải đối mặt với những vấn đề hết sức nan giải:

- Nền kinh tế èo uột, mất động lực tăng trưởng. Các cải cách tái cấu trúc, đặc biệt đối với khu vực DNNN rất chậm chạp[1]. Khu vực làm ăn tốt nhất là khu vực FDI lại bị giáng một đòn chí tử trong cuộc bạo động vừa qua. Sự “ổn định chính trị” mà Việt Nam bấy lâu nay tự hào và coi đó như một lợi thế lớn để thu hút đầu tư nước ngoài đã bị chứng tỏ chỉ là một ảo tưởng qua mấy ngày bạo động vừa qua;

- Tình hình mất niềm tin có xu hướng càng lan rộng và tăng cao nếu nguy cơ xung đột vũ trang với Trung Quốc và tình hình bất ổn trong nước kéo dài;

-  Các đòi hỏi của chủ nghĩa dân tộc, nhiều khi là cực đoan trong nước trong việc đòi hỏi có các hành động chống lại Trung Quốc mạnh mẽ hơn;

-  Nguy cơ gây bất ổn từ phía Trung Quốc. Trung Quốc có dư tiềm lực và kinh nghiệm để gây mất ổn định tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam, đặc biệt sau kinh nghiệm của giai đoạn vừa qua. Qua những bất ổn vừa rồi, rõ ràng Trung Quốc đã rất thành công trong việc “dạy cho Việt Nam một bài học” khi Việt Nam muốn đối đầu với mình.

Như vậy tương lai sắp tới của Việt Nam sẽ như thế nào và Việt Nam nên làm gì để giữ được toàn vẹn lãnh thổ? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời vì phụ thuộc vào nhiều biến số khác nhau.

Đa số những người có hiểu biết thật sự đều hiểu rằng chỉ có cách tách ra khỏi “quỹ đạo Trung Quốc”, dân chủ hóa đời sống chính trị, tự do hóa nền kinh tế để làm đất nước mạnh lên, hội nhập hơn nữa vào các chuẩn mực chung của văn minh nhân loại để tìm thêm những người bạn mới trên thế giới thì mới là cách tốt nhất để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Tuy nhiên, điều này lại vấp phải một trở lực quá lớn là ý thức hệ của đảng cầm quyền.

Tác giả tin rằng phần nhiều đảng viên, nhất là những người ở tầng lớp thấp vẫn là người “yêu nước” thực sự nhưng họ cũng lại thật lòng tin rằng cách làm như hiện nay, tức là duy trì sự độc tôn tư tưởng, hạn chế dân chủ, hạn chế tự do ngôn luận, hạn chế xã hội dân sự, duy trì ý thức hệ cũ… lại chính là cách tốt nhất để bảo vệ đất nước một cách có hiệu quả. Đây có lẽ là bi kịch lớn nhất của những người cộng sản trung kiên. Họ tưởng rằng việc duy trì đàn áp nội địa để giữ “ổn định” chính trị, hạn chế tự do ngôn luận để có sự “đồng thuận ý kiến” và tăng chi cho quốc phòng sẽ giúp tăng cường khả năng phòng thủ trước Trung Quốc. Tuy nhiên, họ đã quên bài học của Hồ Quý Ly khi chống nhau với giặc Minh. Nhà văn Hoàng Hải, một người nghiên cứu chuyên sâu về giai đoạn có nói:
“Ngôi thành đá kiên cố, hơn 600 năm xem ra vẫn còn chắc vững lắm. Thế mà cái thời đại đẻ ra ngôi thành đó, tức nhà Hồ, lại sụp đổ nhanh chóng đến bất ngờ.

Xét Hồ Quý Ly lấy ngôi nước từ nhà Trần trên cơ sở điêu trá và tàn bạo. Vốn liếng chính trị ông gây dựng trên cái nền của lòng dân chán ghét, nội bộ chia lìa. Tất cả những yếu tố khiến cho sức mạnh quốc gia dần đi vào thế bại liệt, đều do một tay Hồ Quý Ly bày xếp cả. Và cái thế nước lụi tàn ấy, làm sao mà che bịt được những đôi mắt gian giảo của bầy ác thú phương Bắc.

Chính cha con Hồ Quý Ly chứ không phải ai khác, đã tiến hành những cuộc tàn sát khủng khiếp đối với những người chống đối, hoặc chỉ có ý nghĩ không tùng phục mà có kẻ tố giác, cũng bị rơi đầu. Quân lính của ông luôn luôn bận mải hành quân đàn áp nhân dân nổi dậy từ khắp mọi nơi. Cả nước tràn ngập không khí tang tóc và tù ngục. Lòng dân oán hận triều đình đến cùng cực, chia rẽ đến tột cùng, đói khổ đến tột cùng. Để cho đất nước rơi vào thảm cảnh đó, cũng có nghĩa tự mình tạo điều kiện tốt nhất cho giặc ngoài vào xâm lấn, và cũng có khác chi tự mình đem nước dâng cho giặc. Nhà Hồ sụp đổ nhanh chóng như vậy, chỉ có một nguyên nhân duy nhất có thể cắt nghĩa là bởi khinh dân, chống lại nguyện vọng chân chính của toàn dân, và vì thế cả dân tộc không hợp tác với nó, khiến nó bị diệt vong.

Nhớ câu nói nổi tiếng của Hồ Nguyên Trừng khi Hồ Quý Ly hỏi: "Ta ước sao có được một trăm vạn quân để chống lại người Minh". Trừng đáp: "Thưa cha, quân không sợ thiếu, chỉ sợ lòng dân không theo". (http://vnca.cand.com.vn/vi-vn/tulieuvanhoa/2010/8/57286.cand )

Việc mua sắm các thiết bị quân sự hiện đại sẽ đặt gánh nặng rất lớn lên ngân sách quốc gia. Mua đã tốn tiền nhưng chi phí duy tu, bảo dưỡng những thiết bị hiện đại như tàu ngầm sẽ ngốn những khoản ngân sách khổng lồ. Một quốc gia yếu kém về kinh tế không thể đủ tiềm lực lâu dài để chạy đua quân sự mà không ảnh hưởng lớn tới đời sống của người dân.

Theo tác giả, trong thời gian tới, tầng lớp lãnh đạo Việt Nam sẽ vừa muốn tiếp tục duy trì quyền lực tuyệt đối nhưng cũng không còn dám thân thiết quá với Trung Quốc như thời gian vừa rồi. Những ngôn từ ca ngợi bạn “4 tốt, 16 chữ vàng” chắc sẽ ít hoặc không còn được sử dụng công khai. Tuy nhiên, họ sẽ lợi dụng chính những bất ổn xảy ra từ các cuộc bạo động để củng cố cơ sở quyền lực của mình. Các chính quyền toàn trị rất giỏi trong việc này. Nhãn tiền có thể thấy là nhà nước đã tung ra các đợt tuyên truyền nói rằng Việt Tân đang giật dây cho biểu tình “trái pháp luật” nên họ sẽ mạnh tay ngăn cản các cuộc biểu tình không do nhà nước tổ chức, bất kể vì lý do gì[2]. Họ cũng sẽ lợi dụng tinh thần dân tộc đang dâng cao, yêu cầu người dân “đoàn kết” xung quanh chính phủ đấu tranh chống Trung Quốc để che giấu những bất ổn nội bộ bên trong như tham nhũng, bất bình đẳng, khiếu kiện đất đai…

Đảng cũng thấy rằng không thể dựa vào giai cấp công nhân vì trình độ “giác ngộ” của họ quá kém, nếu thả lỏng thì rất có thể xảy ra một dạng nào đó của “Mùa xuân Ả rập”. Như vậy, lực lượng duy nhất mà đảng có thể tin cậy được là lực lượng công an và phần nào đó là quân đội. Tuy nhiên, rất có thể sắp tới sẽ có điều tra để thanh trừng những nhân vật bị coi là “cơ sở của Trung Quốc” có trách nhiệm trong bạo loạn vừa rồi.

Tóm lại, khả năng lớn nhất là sẽ có sự tránh xa dần Trung Quốc nhưng không phải tránh xa mô hình và ý thức hệ của Trung Quốc mà là tránh xa “quốc gia” Trung Quốc. Nhưng một phiên bản lỗi của Trung Quốc, cô đơn lạc lõng trong thế giới văn minh làm sao có thể kháng cự lại Trung Quốc một cách hiệu quả đây[3]? 

 

[1] Có thể thấy từ đầu năm thủ tướng Dũng có vẻ rất tích cực trong việc thúc đẩy cổ phần hóa DNNN, một vấn đề mà ông này không hào hứng trong suốt hơn một nhiệm kỳ qua. Điều này có thể liên quan tới động cơ chính trị là thủ tướng Dũng sẽ chạy đua vào chức TBT và không muốn thủ tướng kế nhiệm mình có được một bệ đỡ quyền lực quan trọng là hệ thống các DNNN hay tập đoàn khổng lồ như trong nhiệm kỳ của thủ tướng Dũng.
[2]  Mấy ngày gần đây trên mạng có lan truyền các câu chuyện là sau khi diễn ra bạo động ở các KCN, vẫn có nhiều nhóm người đi thuê người dân biểu tình. Điều này rất hoang đường nhưng lại được rất nhiều người tin, kể cả những người có học. Nếu có lý trí sẽ thấy ngay điều này là không thể vì nhiều người thế sao công an không bắt được ai và Việt Tân cũng chả dại gì mà dính vào việc kích động bạo lực để bị xử theo luật chống khủng bố của Mỹ.
[3] Một điều dễ nhận thấy là trong lịch sử Việt Nam, ngay cả những triều đại đánh thắng Trung Quốc thì rồi cũng lại cũng lại sao gần như y nguyên thể chế, luật pháp, cách tổ chức nhà nước của Trung Quốc. Sau này Nhật Bản và Hàn Quốc đã thoát ly được mô hình Trung Quốc nhưng Việt Nam thì gần chưa bao giờ thoát được. Ngay cả hiện nay, trong những người đảng viên “dân tộc” nhất, hô hào “chống Trung Quốc” nhất thì cũng vẫn học y nguyên theo mô hình Trung Quốc vô thức hoặc có ý thức. Theo tác giả, hiện nay khái niệm “độc lập dân tộc” tức là thoát được việc lệ thuộc về kinh tế, tư tưởng, thể chế, ý thức hệ chứ không chỉ là độc lập về “lãnh thổ”.

Ông Biden: "Đố bạn kể được một sáng tạo của Trung Quốc"

Ông Biden: "Đố bạn kể được một sáng tạo của Trung Quốc"

Ông Biden: "Đố bạn kể được một sáng tạo của Trung Quốc"


(NLĐO) - Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden hôm 28-5 đã có một bài phát biểu mang tính mỉa mai, trong đó cho rằng Trung Quốc không hề có sản phẩm nào mang tính sáng tạo.
  • Phát biểu tại lễ khai giảng Học viện Không quân Mỹ ở Colorado Springs, bang Colorado, ông Biden thẳng thừng tuyên bố: “Số lượng nhà khoa học và kỹ sư mà Trung Quốc đào tạo nhiều gấp 6-8 lần ở Mỹ. Nhưng tôi đố các bạn kể ra một dự án sáng tạo, một sự thay đổi sáng tạo hoặc một sản phẩm sáng tạo do Trung Quốc làm ra”.
  • Ông Biden cho rằng vấn đề nhân quyền là yếu tố chính cản trở sự tiến bộ của Bắc Kinh trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong tư duy đổi mới.

  • Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden. Ảnh: AP
  • Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden. Ảnh: AP
  • Trước đây, Phó Tổng thống Biden đã nhiều lần phát biểu về việc Trung Quốc gặp khó khăn trong đổi mới tư duy. Trong chuyến đi tới Trường ĐH Bang Iowa năm 2012, ông Biden nói với các sinh viên rằng Trung Quốc "không hề sáng tạo".
  • Phát biểu này của ông Biden có thể khiến Bắc Kinh khó chịu nhưng không thay đổi được thực tế Trung Quốc vẫn là một công xưởng lớn của thế giới thay vì là trung tâm sáng tạo. Trong một bài báo đăng vào tháng 10-2013, đài CNN đặt vấn đề tại sao Trung Quốc không hề thay đổi hệ thống nhà máy điện trên cả nước trong nhiều năm qua dù dân số ngày một đông đúc. 
  • NLĐ/CNN

Buồn vui thời điêu linh: Thời Đốt Sách !



Buồn vui thời điêu linh: Thời Đốt Sách !
 
     
alt
Xuống đường Bài trừ Văn hóa "Đồi trụy & Phản động" trong thời điêu linh

“Nơi nào người ta đốt sách thì họ sẽ kết thúc bằng việc đốt sinh mạng con người”.

Theo Sử ký Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, thừa tướng Lý Tư đã đề nghị dẹp bỏ tự do ngôn luận để thống nhất chính kiến và tư tưởng. Lý Tư chỉ trích giới trí thức dùng ‘sự dối trá’ qua sách vở để tạo phản trong quần chúng.

Chủ trương Đốt sách, Chôn nho (Phần thư, Khanh nho) của Tần Thủy Hoàng được thực hiện từ năm 213 trước Công nguyên. Qua đó, tất cả những kinh điển từ thời Chư tử Bách gia (trừ sách Pháp gia, trường phái của Lý Tư) đều bị đốt sạch. Lý Tư còn đề nghị đốt tất cả thi, thư, sách vở, trừ những quyển được viết vào thời nhà Tần. Sách trong lĩnh vực triết lý và thi ca, trừ những sách của Bác sĩ (cố vấn nhà vua) đều bị đốt. Những nho sinh dùng sử sách để chỉ trích chính quyền đều bị hành hình. Những ai dựa vào chế độ cũ để phê phán chế độ mới sẽ bị xử tội chém ngang lưng.

Lý Tư tấu: “Thần xin rằng sử sách không phải do Tần ghi chép đều bị đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải là tiến sĩ thì trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của Bách gia, tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng trường thành”.

Năm 212 TCN, Tần Thuỷ Hoàng phát hiện ở Hàm Dương có một số nho sinh đã từng bình phẩm về mình liền hạ lệnh bắt để thẩm vấn. Các nho sinh không chịu nổi tra khảo, lại khai ra thêm một loạt người khác. Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh đem tất cả trên 460 nho sinh đó chôn sống ngoài thành Hàm Dương. Đốt sách, chôn Nho là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất của Tần Thủy Hoàng. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn còn ghi nhớ. Không riêng gì người Hán mà cả nhân loại lên án.

Trong thâm tâm, Tần Thủy Hoàng cũng như Lý Tư đều biết rất rõ, lệnh đốt sách không thể nào xóa sạch những tư tưởng trong đầu óc dân chúng, những cuốn sách ‘khó đốt’ nhất là nằm trong tinh thần con người. Như vậy, việc đốt sách thực tế chỉ là một thủ đoạn chứ không tạo được tác dụng triệt để trong việc xóa sạch vết tích văn hóa-chính trị như mong muốn.

Việt Nam vốn tự hào là quốc gia có hơn 4000 năm văn hiến, nhưng sách vở của người xưa để lại thì rất ít. Nguyên nhân chính là vì quân nhà Minh bên Tàu đã ra lệnh hủy hết sách vở ngay trong những ngày đầu đô hộ nước ta để dễ bề cai trị. Sau này, cuộc Cách mạng Văn hóa tại Trung Hoa từ năm 1953 đến 1966 cũng đã gây nhiều ảnh hưởng đến miền Bắc. Do đó, xét về mặt lịch sử, Việt Nam đã trải qua rất nhiều thời kỳ sách vở bị tiêu hủy cho phù hợp với những thay đổi qua các giai đoạn chính trị.

Trên thực tế, tại miền Bắc, ngay sau khi tiếp quản Hà Nội, việc kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng đã được thực hiện ngay từ năm 1954. Đối với các loại sách báo đã in ra từ trước 1954 dưới thời Pháp thuộc cũng đã bị đốt. Thế cho nên, việc đốt sách tại miền Nam năm 1975 chỉ là rập khuôn của chính sách cũ năm 1954.

Hồi ký của Một người Hà Nội ghi lại sự kiện đốt sách năm 1954 khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền Bắc: “Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’, năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’ này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ truy lùng… đốt sách!

Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang ‘tập trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản động!’. Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập trường”.

alt
Tại miền Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày 30/4/1975, việc đốt sách được thể hiện qua chiến dịch Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động. Tự bản thân khẩu hiệu trong chiến dịch đã nêu rõ 2 mục đích: (1) về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế độ và (2) về văn hóa, xóa bỏ hình thức được coi là ‘đồi trụy theo hình thức tư bản’.

Một trong những việc làm cấp thiết của chính quyền mới khi miền Nam sụp đổ là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những tác phẩm của nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài Gòn như Khai Trí, Sống Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm phong và cấm lưu hành.

Đội ngũ những người cầm bút miền Nam phải nói là rất đông và bao gồm nhiều lãnh vực. Về triết học phương Tây có Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan… Triết Đông có Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Kim Định, Nhất Hạnh…

Phần biên khảo có Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Đức, Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Đào Văn Tập, Phạm Thế Ngũ, Vương Hồng Sển, Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng Văn Chí, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Văn Sâm...

Về thi ca có Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử Lê.... Phê bình văn học có Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao, Huỳnh Phan Anh...

Đông đảo nhất là văn chương với Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Bình Nguyên Lộc, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình Toàn, Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y Uyên, Cung Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh...

Toàn bộ sách ấn hành tại miền Nam của những tác giả nêu trên (còn một số người nữa mà người viết bài này không thể nhớ hết) đều bị ‘đánh đồng’ là tàn dư Mỹ-Ngụy, văn hóa nô dịch, phản động và đồi trụy. Các cấp chính quyền từ phường, xã, quận, huyện, thành phố ra chỉ thị tập trung tất cả các loại sách vở, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến sách giáo khoa để hỏa thiêu.

Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta ước đoán có đến vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại Sài Gòn. Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh, sách báo bị thu gom để thiêu hủy, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con người những cá nhân có liên quan. Tất nhiên, những người có sách bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt. Trong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn biến trong vụ đốt sách năm 1975:

“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.

Nguyễn Thụy Long là cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học nổi tiếng với danh ngôn: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”, người được giới văn học đánh giá là một trong những cây bút đầu tiên viết truyện ngắn hiện đại bằng chữ quốc ngữ trong văn học Việt Nam. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long như Loan mắt nhung, Kinh nước đen cũng gian truân không kém cuộc đời của tác giả, chúng được xếp vào loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên giàn hỏa.

Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng Long) bị chính quyền mới coi như ‘một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của miền Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn chương, trong đó nổi bật có Luật hè phố, Dzũng Đakao, Điệu ru nước mắt, Vẻ buồn tỉnh lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy. Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung.

Vượt biển sang Pháp, Duyên Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó có Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là ‘nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia’.

Đầu năm 1997, Duyên Anh từ trần tại Pháp. Dù muốn dù không, nhiều người ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của truyện ngắn đọc đến mủi lòng, có tựa đề là Con sáo của em tôi đăng trên Chỉ Đạo năm 1956. Những truyện ngắn, truyện dài thật trong sáng của tuổi ô mai như Dưới dàn hoa thiên lý hoặc du côn du đãng như Dzũng Dakao… Tất cả lần lượt được hóa kiếp bằng ngọn lửa.

Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất bản sau năm 1975 có đoạn viết:

“… Một số người như Duyên Anh, Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống Cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.
Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống Cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt động có ý thức. Ý thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xã hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản...
Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương tiện để đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi bút của mình phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví mình là ‘viên gạch để xây bức tường thành ngăn sóng đỏ’, Doãn Quốc Sĩ coi mình như một ‘viên kim cương, răng Cộng Sản không sao nhá được’...”

Trong vụ án được mệnh danh là Nhũng tên Biệt kích Cầm bút năm 1986, một số nhà văn ra tòa tại Sài Gòn với tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới muốn dựng một vụ án điển hình để đe dọa các nhà văn miềnNam nhưng bất thành vì áp lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn dựng, họ muốn xử Doãn Quốc Sĩ mức án tử hình hay chung thân, Hoàng Hải Thủy (từ chung thân đến 20 năm), Dương Hùng Cường (18 năm), Lý Thụy Ý (15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (10 năm) và Khuất Duy Trác cùng Trần Ngọc Tự (8 năm).

Tính ra Hoàng Hải Thủy (còn có bút danh Công tử Hà Đông, Con trai bà Cả Đọi…) ngồi tù ngót nghét 10 năm sau đó tìm đường vượt biên sang Mỹ. Tác phẩm của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên các báo, truyện phóng tác, bình luận, phiếm luận… Bây giờ tuy đã già nhưng vẫn còn viết rất hăng ở Rừng Phong (Virginia) trên blog của HHT

Những nhà văn như Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long thường sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh việc viết văn. Trong lãnh vực báo chí, Sài Gòn vẫn được coi là trung tâm của báo chí với những nhật báo lớn đã xuất hiện từ lâu như tờ Thần Chung (sau đổi thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai), Sài Gòn Mới của bà Bút Trà… Khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến là Ngôn Luận. Đó là những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Hoạt động báo chí ở Saigòn càng ngày càng phát triển, theo Vũ Bằng, đến tháng 12/1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra hàng ngày.

alt alt
Nhật báo Tiền TuyếnTiếng Chuông

Một đặc điểm của văn học miền Nam là việc hình thành các nhóm văn học. Nhóm Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành lập với Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ. Quan Điểm (cũng là tên nhà xuất bản do Mặc Đỗ điều hành) được người đương thời gọi là nhóm ‘trí thức tiểu tư sản’, bởi tác phẩm của họ, trong những ngày đầu chia cắt đất nước sau hiệp định Genève, thường có những nhân vật mang nỗi hoang mang, trăn trở của người trí thức tiểu tư sản trước ngã ba đường: theo bên này, bên kia, hay đứng ngoài thời cuộc?

Theo Trần Thanh Hiệp, nhóm Sáng Tạo là một nhóm sinh viên hoạt động trong Tổng hội sinh viên Hà Nội, trước 1954, gồm bốn người: Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Di cư vào Sài Gòn, họ tiếp tục hoạt động văn nghệ với tuần báo Dân Chủ (do Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách), rồi tờ Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo). Sau đó Mai Thảo gia nhập nhóm với truyện ngắn Đêm giã từ Hà Nội, rồi đến Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại.

Trên tạp chí Sáng Tạo, ngoài những tên tuổi kể trên người ta còn thấy Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái Tuấn. Sáng Tạo số đầu ra tháng 10/1956 và tạm ngưng ở số 27 (tháng 12/58). Sáng Tạo bộ mới chỉ đến số 7 (tháng 3/60)

alt alt

Nhóm Bách Khoa ra đời tháng 1/1957 và sống đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Bách Khoa là nguyệt san văn học nghệ thuật có tuổi thọ dài nhất với 426 số. Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều hành trong những năm đầu. Đến 1963, khi Ngô Đình Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị tù, nên giao hẳn cho Lê Ngộ Châu.
Bách Khoa quy tụ được nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, Nguyễn Ngu Ý, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Đoàn Thêm, Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc.... Theo Võ Phiến, trong thời kỳ cực thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến 5000 bản.

left align image
Đắt khách nhất là tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng, ra đời ngày 1/1964 và sống đến 1975. Văn do Trần Phong Giao trông nom trong 10 năm đầu, đến 1974 chuyển lại cho Mai Thảo. Văn cũng quy tụ được nhiều nhà văn ở nhiều lứa tuổi thuộc nhiều khuynh hướng, từ Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên Lộc... Văn đặc biệt quan tâm đến việc dịch thuật và giới thiệu văn học nước ngoài. Trần Phong Giao cũng là một dịch giả nổi tiếng, còn có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở Paris, dịch và viết về những phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.

Tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được 11 số thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp tục chủ trương tiếp các tờ Tân Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá Ngày nay.

Tạp chí Đại học, tờ báo của Viện đại học Huế do Linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964. Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, người sau này có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên và trí thức.

Về các nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn chương, cho biết: “Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo, qua các nhà xuất bản, nhất là trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lý lịch văn chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm tạp chí trên đó họ góp mặt”.

Đa số các nhà văn miền Nam qui tụ trên các tờ tuần báo Đời Mới, Nhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon Mới (Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy...). Các nhà văn gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn Nghệ Mới, Bách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Bùi Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường...

Khuynh hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng Thiên chúa giáo La mã có Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu, Thế Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, song các nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương, Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được diễn đàn riêng trên Tin Văn hay hiện diện trong tổ chức Văn Bút dưới thời linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch.

Những tờ như Văn, Phổ Thông, Văn Học, qui tụ các nhà văn không có lập trường chính trị rõ rệt, họ thuần túy làm văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời đại, sinh hoạt thành phố như Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng. Những tờ về nghệ thuật hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long, An Khê, Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang...

Về giới cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo gia đình vào Nam hoặc sinh trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sàigòn như Vạn Hạnh, Minh Đức...”

Những nhà văn trẻ đã trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị-xã hội, chiến tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến họ vì bị động viên hay quân dịch... Do đó, họ có lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với lối nhìn của những đàn anh viết từ trước 1963… Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.

Nhờ hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả bao gồm nhiều thành phần trong khi các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc, Túy Hồng, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam... đều sống bằng ngòi bút một cách dư giả. Họ là những người viết chuyên nghiệp, thậm chí nhiều nhà văn có nhà xuất bản riêng.

Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật đã viết được 100 quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời gian sau đó. Nguyễn Văn Trung, ngoài lượng sách về triết học, văn học, in trước 1975, trong những công trình sau 1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học miền Lục tỉnh Nam Kỳ. Những nhà văn như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo... cũng đều có những số lượng tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, số lượng tỷ lệ nghịch với chất lượng và đó là cái giá mà nhà văn phải trả.

Về đối tượng độc giả, có thể nói, lớp trẻ ‘bụi đời’ thích đọc Duyên Anh, lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Phụ nữ thích Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca vì họ phản ảnh đời sống người phụ nữ tân tiến. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lãng mạn giao thời thích đọc Mai Thảo. Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là những tác giả đòi hỏi người đọc một trình độ trí thức cao. Quần chúng bình dân thích Lê Xuyên, Tùng Long... Học sinh trường Tây đọc văn chương ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh trường Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.

Bộ sách Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới của Nguyễn Q. Thắng xuất bản sau năm 1975 có đề cập tới 53 ‘văn gia’ của VNCH, mỗi người được tác giả gắn cho một nhãn hiệu. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Trung là ‘nhà văn nhập cuộc’, Cao Xuân Hạo ‘nhà lập thuyết ngữ học’, Nguyễn Ngọc Lan ‘nhà văn Công giáo, nhà báo dấn thân’, Thanh Việt Thanh (?) ‘nhà văn cần cù’, Thế Uyên ‘nhà văn nhập cuộc’, Viên Linh ‘hoàng đế’, ‘nhà độc tài' văn học’ (!?), Hồ Trường An ‘dược sĩ (?), nhà văn’…
Những nhà văn nữ như Nguyễn Thị Thụy Vũ được khoác cho cái nhãn ‘nhà văn nữ giầu tình dục’, Túy Hồng ‘nữ văn sĩ giầu tính nhục cảm’, Nguyễn Thị Hoàng ‘nhà văn trẻ của tình lụy’, Thu Vân (?) ‘nhà văn dùng tính dục để giải quyết vấn đề’…

alt alt


alt alt
Chân dung một số văn nghệ sĩ Miền Nam

Một điều không ai có thể phủ nhận là miền Nam trước khi có chiến dịch đốt sách năm 1975 rất phong phú về sách báo, từ sáng tác đến dịch thuật, từ chính luận đến phiếm luận. Điều chắc chắn là trong số các tác phẩm đó ‘có vàng’ nhưng cũng ‘có thau’. Người đọc đủ sáng suốt để lọc ra những gì với họ là tinh túy để giữ lại, hoặc dấu nếu cần
Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954, họ rất ngạc nhiên khi thấy những người đạp xe xích lô đến buổi trưa, tìm chỗ mát nghỉ ngơi. Họ ngồi gác chân đọc nhật trình. Người bình dân miền Nam có truyền thống đọc sách báo mà ở ngoài Bắc không có. Ngay từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 miền Nam đã là vùng đất của tiểu thuyết và báo chí trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học.

Miền Nam vào những thập niên 60-70 lại có hiện tượng giao thoa giữa hai nền văn hóa Pháp và Mỹ với sự du nhập ồ ạt của các loại sách Livre de poche của Pháp và các loại sách soft cover của Mỹ. Giá sách nói chung tương đối rẻ vì mục đích chính là phổ biến văn hóa, thương mại chỉ là phụ.

Người đọc có thể tìm loại sách IC (Information & Culture) dưới hình thức sách bỏ túi (Livre de Poche) của Pháp bày bán tại các nhà sách Sài Gòn trước 1975 một cách dễ dàng. Nếu có chút vốn liếng về tiếng Pháp, người ta có thể tìm đọc những tác phẩm cổ điển của Platon, Homère hoặc các tác phẩm đương đại của Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Saint Exupéry, Francoise Sagan…


Quân đội Mỹ ào ạt đổ bộ vào miền Nam, nhưng văn hoá Mỹ có vai trò áp đảo hay không? Theo giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, “Thời chiến tranh lạnh, với thế lưỡng cực trên thế giới, miền Nam nằm trong vùng ảnh hưởng Mỹ, và như vậy là có thêm tác nhân mới. Tuy nhiên, văn hoá Mỹ, theo gót đoàn quân viễn chinh, cũng chưa thể gọi là có ảnh hưởng gì sâu đậm. Ở lối sống, ở những giai tầng thấp thì có thể gọi là có ảnh hưởng một cách xô bồ, nhưng ở thượng tầng thì chưa”.


Hoa Kỳ thành lập cơ quan thông tin-văn hóa JUSPAO (Joint United States Public Affairs Office) và tạp chí Thế giới Tự do được phát hành miễn phí cho mục đích tuyên truyền. Đây là báo ảnh, được in ấn bằng phương tiện tối tân nên rất hấp dẫn người đọc.

Cũng có một nguồn cung cấp sách tiếng Anh hoàn toàn miễn phí nhưng rất ít người biết để đem về kệ sách riêng của mình. Đó là sách của Asia Foundation (Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu) một tổ chức phi mậu dịch, tặng không cho người đọc là quân nhân, công chức với số lượng hạn chế mỗi lần 5 quyển cách nhau 3 tháng.

Tôi là ‘khách hàng’ thường xuyên của Asia Foundation. Sách của Asia Foundation là loại sách viện trợ thuộc đủ mọi lĩnh vực, trên sách có đóng dấu bằng 2 thứ tiếng “Not for sale” và “Xin đừng bán”. Nếu gặp may, bạn có thể gặp những sách thuộc loại ‘quý, hiếm’.
Tôi còn giữ được một bộ 2 cuốn World Masterpieces (dày khoảng 3000 trang in lại những kiệt tác văn chương của thế giới qua các thời kỳ như Iliad của Homer, Don Quixote của Miguel de Cervantes,Hamlet của William Shakespeare, Thoughts (Les Pensées) của Blaise Pascal, Faust của Von Goethe,The Death of Iván Ilyich của Leo Tolstoy, Theseus (Thésée) của Andre Gide, Remembrance of Things Past của Marcel Proust, No Exit của Jean-Paul Sartre…

alt

Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đã được in lại, và càng ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu và phục hồi lại nền văn học đã mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng ở miền Nam đã xuất hiện khá nhiều trên Internet. Sau 1975, Từ điển văn học bộ mớicũng được phép in một số mục từ về Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng...Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường...

Chỉ tiếc một điều là một số sách báo xưa đã biến mất sau đại họa 1975 và chỉ còn lưu giữ rất hạn chế tại các thư viện tại hải ngoại dưới hình thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi ‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề là những thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên lạc bằng sách báo với quá khứ.

Kết thúc bài viết này, tác giả xin mượn ý thơ của Vũ Đình Liên than thở cho thân phận ông đồ trước cảnh tàn lụi của nền nho học:

Năm nay đào lại nở
Không thấy sách báo xưa
Ngọn lửa nào năm cũ
Lạc về đâu bây giờ?

Nguyen Ngoc Chinh (Hồi ức một đời người)