Thursday, December 4, 2014

Nữ tỷ phú trẻ tuổi nhất nước Mỹ thay đổi ngành y học thế giới

Nữ tỷ phú trẻ tuổi nhất nước Mỹ thay đổi ngành y học thế giới  

Lần tới khi bạn làm xét nghiệm máu, bạn sẽ không cần phải đi tới bác sĩ rút một lượng máu lớn từ cánh tay của bạn nữa. Thay vào đó bạn có thể vào một hiệu thuốc Walgreens và có được kết quả chỉ với một vài giọt máu. Đó là nhờ Elizabeth Holmes, 30 tuổi, là nữ tỷ phú trẻ tuổi nhất và tỷ phú trẻ thứ ba trên bảng xếp hạng mới được công bố hàng năm của tạp chí Forbes trong 400 người giàu nhất nước Mỹ.

Đột phá trong xét nghiệm máu là một ý tưởng vàng. Chỉ cần một chiếc kim châm và một vài giọt máu, họ có thể thực hiện hàng trăm bài kiểm tra, từ kiểm tra tiêu chuẩn cholesterol đến phân tích độ phức tạp của di truyền. Kết quả nhanh hơn, chính xác hơn, và rẻ hơn rất nhiều so với phương pháp thông thường.

Ý tưởng cả tỷ USD
Holmes đã bỏ học tại Stanford ở tuổi 19 để thành lập Theranos sau khi quyết định rằng tiền học phí của cô nên dùng để nghiên cứu các vấn đề về sức khoẻ.

Xét nghiệm máu truyền thống rất khó khăn và tốn kém. Nó cũng không được đổi mới từ những năm 1960 và phải được thực hiện tại các bệnh viện và văn phòng bác sĩ. Lọ máu phải được gửi đi để thử nghiệm, có thể mất vài tuần mới có kết quả và rất dễ xảy ra lỗi.
Phải mất một thập kỷ cho ý tưởng của cô được phát triển, nhưng kết quả đem lại rất tốt. Tháng 9 năm ngoái, Walgreen, hệ thống hiệu thuốc bán lẻ lớn nhất với hơn 8.100 cửa hàng, đã công bố kế hoạch tung ra Trung tâm kiểm tra sức khỏe của Theranos tại các nhà thuốc của mình. Cho đến nay, đã có một trung tâm của Theranos tại Walgreens ở Palo Alto và 20 trung tâm khác ở Arizona.
Trong một báo cáo gần đây của tạp chí Fortune, Theranos đã tăng thêm 400 triệu USD, nâng tổng giá trị công ty lên mức cao kỷ lục 9 tỷ USD (Holmes sở hữu hơn 50% vốn cổ phần)
Hai tỷ phú 30 tuổi khác trong danh sách của Forbes là người sáng lập Facebook Mark Zuckerberg và bạn cùng phòng cũ của anh, Giám đốc điều hành Facebook Dustin Moskovitz.


Tại sao lại là xét nghiệm máu? Nữ tỷ phú trẻ tuổi nhất nước Mỹ thay đổi ngành y học thế giới
Chủ tịch, Giám đốc điều hành và người sáng lập Theranos, Elizabeth Holmes tại TechCrunch ngày 8 tháng 9 năm 2014 ở San Francisco, California
Holmes chia sẻ rằng cô nhắm vào xét nghiệm máu bởi vì nó chiếm khoảng 80% các quyết định lâm sàng được thực hiện bởi bác sĩ.
Các xét nghiệm mới có thể được thực hiện mà không cần tới bác sĩ sẽ tiết kiệm tiền bạc và thời gian. Hầu hết các kết quả sẽ có trong khoảng bốn giờ, có nghĩa là bạn có thể đến một hiệu thuốc và thử máu trước hôm đến khám bác sĩ và sau đó kết quả sẽ được chuyển tới cho các bác sĩ.
Việc kiểm tra vô cùng nhanh chóng có thể thực hiện bất cứ lúc nào đã là một thay đổi hoàn toàn, nhưng những thông tin có thể nhận được từ một giọt máu lại càng tuyệt vời hơn. Các mẫu máu truyền thống chỉ sử dụng cho một xét nghiệm còn với phương pháp Theranos thì một giọt máu có thể được sử dụng cho hàng chục xét nghiệm khác nhau.
Mỗi lần thử máu đem đến chi phí ít hơn 50% so với việc thử máu truyền thống. Nếu phương pháp này được thực hiện rộng rãi, chúng ta sẽ tiết kiệm được hơn 202 tỷ USD trong thập kỷ tới.
Dữ liệu này cũng rất hữu ích cho bất cứ mong muốn hiểu biết tốt hơn về sức khỏe của họ. "Bằng cách thử nghiệm, bạn có thể bắt đầu hiểu cơ thể của bạn, hiểu được bản thân, thay đổi chế độ ăn uống của bạn, thay đổi lối sống của bạn và bắt đầu thay đổi cuộc sống của bạn", cô chia sẻ.
Khánh Linh (BizLive)

 

Monday, December 1, 2014

Di huấn của vua Lê Thánh Tôn.


Di huấn của vua Lê Thánh Tôn.



“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước núi, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di!”.
Di huấn của vua Lê Thánh Tôn.

CHUYẾN ĐI TUYÊN QUANG GIAN NAN CỦA TÔI

CHUYẾN ĐI TUYÊN QUANG GIAN NAN CỦA TÔI


Thời đại này mà công an còn hành xử mông muội như thế này đây:











Đại diện cho Hội Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam, tôi cùng chị Nguyễn Ngọc Lụa đi Tuyên Quang tham gia phiên tòa phúc thẩm 3 người H’Mông là ông Thào Quán Mua, Lý Văn Dinh và Dương Văn Tu. Chúng tôi khởi hành từ Hà Nội, đi xe khách lên Tuyên Quang từ tối ngày 26 tháng 5 và có mặt ở cổng Trại giam Công an tỉnh Tuyên Quang sáng ngày 27 tháng 5 năm 2014.






Từ sáng sớm, an ninh, công an sắc phục và thường phục, cảnh sát giao thông đặt chốt chặn ở mọi ngã đường dẫn đến trại giam Tuyên Quang. Chị em chúng tôi không được cho vào tham dự phiên tòa nên ngồi đợi ở quán nước bên đường. Đợi đến 8h40, khi đã bắt đầu phiên xét xử, chị em tôi đi đến cổng trại giam và trình thẻ chứng minh xin vào xem xét xử. Một lúc sau, tôi bị ba người công an yêu cầu vào làm việc.






Ngay khi vừa vào trại giam, họ thu ngay điện thoại và CMND của chúng tôi và tách hai chị em tôi ra. Họ hỏi chúng tôi là ai mà đến đây xem, biết gì về chuyện của ba người H’mông này mà từ đâu đến tận đây xem, rồi đến hững câu hỏi về cá nhân, danh tính, địa chỉ. Lúc đầu những người hỏi tôi là một phụ nữ mặc thường phục và hai người đàn ông mặc sắc phục. Họ giới thiệu là Công an trại giam tỉnh Tuyên Quang. Tiếp theo, tôi làm việc với chừng bảy công an luôn miệng quát nạt, sỉ vả. Đến khoảng 10h họ nói với tôi rằng Lụa cũng đang làm việc với người của họ ở tầng dưới. Sau đó có 4 người công an khác đến và nói chuyện với nhau là bàn giao tôi và Lụa cho Công an Tỉnh Tuyên Quang.






Đến Công An tỉnh Tuyên Quang, tôi bắt đầu bị thẩm bởi tám công an xoay quanh. Họ tiếp tục hỏi tôi là ai, hình trong CMND phải là tôi không, mau nói, nếu nói sai là…chết. Họ hỏi về Hội Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam, một tổ chức mà tôi và Lụa là thành viên: xoay quanh các câu hỏi về Tên hội, người đứng đầu, tôn chỉ hoạt động, địa chỉ Website, sau đó họ in danh sách thành viên cho tôi đọc và bảo biết những ai trong đó, tôi chỉ im lặng. Tiếp theo là hàng loạt câu hỏi về gia đình tôi, chú tôi Huỳnh Ngọc Tuấn, Huỳnh Thục Vy, những bài biết của tôi trên trang Dân Làm Báo…






Đến 15h họ thông báo cho tôi biết chị Lụa bị tụt huyết áp và xỉu. Đến 16h họ đặt lên bàn một xấp giấy in tất cả tài liệu từ hộp email cá nhân và tin nhắn facebook , về những gì liên quan đến chuyến đi được chị em trong Hội bàn thảo với nhau trong secret group của Hội. Xuyên suốt từ 10h khuya ngày 27 đến 1h sáng ngày 28 là các câu hỏi về Hội PNNQVN, vấn đề tài chính, móc nối với nước ngoài ra sao, những người đứng đầu làm gì. Và họ nói với tôi rằng đây là một tổ chức phản động, yêu cầu tôi không được tham gia. Tôi hỏi lý do vì sao gọi là phản động, thì họ bảo nhà nước không cho phép hoạt động thì là tổ chức phản động. Một công an nói với tôi rằng với các bài viết tôi gửi cho Dân Làm Báo và với tư cách thành viên của một tổ chức phản động thì họ có thể kết tội tôi theo điều 88 Bộ Luật hình sự Việt Nam.






Lúc làm việc họ đã quát tháo, dí máy quay sát vào mặt tôi, chỉ mặt sỉ vả to tiếng. Lúc ấy tôi rất hoang man vì đây là lần đầu tôi bị công an bắt cóc và thẩm vấn. Chúng tôi là hai cô gái, không sức lực, không phương tiện liên lạc, phải ngồi một chỗ cho họ thẩm vấn và xúc phạm. Tuyên Quang là một nơi vô cùng xa xôi hẻo lánh, tôi bắt đầu lo sợ họ bất chấp luật pháp và hành động sai trái làm ảnh hưởng đến sức khỏe nên tôi im lặng và không trả lời. Tôi gục đầu mệt mỏi vì đói lã sau buổi tối bị say xe từ Hà Nội đi Tuyên Quang, sáng đi vào trại giam sớm, rồi bị bắt qua trưa không ăn uống gì…






Tôi vẫn còn nhớ một tên công an luôn miệng hét bên tai tôi: “Tuấn làm phản động và đã đi tù 10 năm, nay con cháu Tuấn cũng y vậy, cô có đầu óc mà sao nghe theo chỉ bảo sai lầm của họ. Cô có biết đây là tổ chức phản động không?”






Tôi bảo: “Anh cho tôi những bằng chứng chứng minh lời anh nói là sự thật đi, thì tôi sẽ tiếp tục làm việc”.






Anh ta càng tỏ ra hung hãn và quát tháo to tiếng hơn. Vài tên công an khác thay nhau chỉ mặt tôi bảo: “Khôn thì khai thật mau, tiền đi lại cho cô lên Tuyên Quang ai đưa, ở đâu mà có tiền này?” Tôi cũng im lặng không nói gì. Mãi đến 12h đêm khi tôi đã kiệt sức, họ mang đến bộ dụng cụ lấy vân tay, chụp hình, lấy đặc điểm gương mặt. Xong họ bảo tôi qua dọn dẹp đồ đạc và ra về. Họ chỉ trả chứng minh, khi tôi hỏi về điện thoại thì họ bảo về Hà Nội có người đưa.






Đưa tôi lên xe là ba công an thường phục lên từ Hà Nội trưa ngày xử án. Họ đưa tôi và Lụa lên xe bảy chổ biển số xanh chạy thật nhanh về Hà Nội khoảng 4h sáng ngày 28/5. Đến Hà Nội họ đỗ xe trước một nhà nghỉ nhỏ và bỏ chúng tôi xuống ngay trong tình trạng suy kiệt về sức khỏe và tinh thần. Họ phóng xe đi, tôi kịp mở máy và chụp lại chiếc xe, họ liền quay xe lại và ba tên công an lao tới giật lại điện thoại. Tiếc của, tôi lao theo chiếc xe chưa kịp đóng cửa giật lại phone, họ cứ phóng xe đi bất chấp tôi đang treo người bên cửa xe. Đi được một đoạn, họ buông tay và đẩy tôi khỏi xe sau khi tôi đã giật lại điện thoại của mình.






Tôi về lại nhà nghỉ. Hai chị em nói chuyện với nhau tôi mới biết họ đã hành động và cư xử với Lụa không khác gì với tôi. Mỗi người đã làm việc với hơn 30 công an tỉnh Tuyên Quang. Bây giờ đây, mọi chuyện đã qua, chúng tôi được nghỉ ngơi và tranh thủ thời gian ít ỏi đi thăm bạn bè tại Hà Nội, nhưng vẫn còn rất mệt mỏi và lo sợ các hành động sách nhiễu khác có thể gặp phải tại nơi này. Chúng tôi đang xa gia đình và rất lo lắng cho an nguy của mình khi vẫn đang còn tạm trú tại Hà nội. Rất mong sự quan tâm chia sẻ của quý bạn bè.






Huỳnh Phương Ngọc

Cái mà Trung Quốc muốn ở Việt Nam chưa chắc đã là dầu hoả, mà là sự thần phục vô điều kiện...


Cái mà Trung Quốc muốn ở Việt Nam chưa chắc đã là dầu hoả, mà là sự thần phục vô điều kiện...

Ngô Bảo Châu

NQL: Ngô Bảo Châu đã điểm rất đúng nỗi lo lắng của dân chúng. Cảm ơn Ngô Bảo Châu. Xin nói leo anh một câu thế này: Cái mà dân chúng xuống đường biểu tình ôn hòa chống Trung Quốc chưa chắc đã là dầu hoả,  mà là sự căm giận TQ buộc VN thần phục vô điều kiện....Nếu ngày mai 18/5 các cuộc biểu tình bị cấm đoán... không biết chuyện gì sẽ xảy ra? Thật đáng sợ.



Nhớ lại năm 1979, lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố dạy cho Việt Nam một bài học. Trong bối cảnh hiện tại, chúng ta phải cố mà nhớ ra bài học của họ Đặng . 

Bài học ấy diễn đạt bình dân thì đơn giản thế này: Chúng tao đánh mày đấy, xem thằng đồng minh Liên xô có nhúc nhích một ngón tay để ứng cứu mày hay không? Chính vì vậy mà Đặng chỉ tấn công Việt Nam sau khi có thông tin tình báo của Mỹ khẳng định Liên Xô mệt lắm rồi, Liên Xô sẽ không động đậy dù chỉ là một ngón tay út.

Lần này, xem xét qua vụ Syria, vụ Crimea thì thấy nước Mỹ của Obama cũng mệt rồi. Cái ông Obama ấy sẽ chẳng làm gì hơn là thực hiện phép biện chứng về xoay trục, xoay đi xoay lại vẫn thế. Rõ ràng đây là thời điểm lý tưởng để Trung Quốc nhắc lại cho Việt Nam bài học của Đặng. Sẽ chẳng có ai nhúc nhích một ngón tay út để bảo vệ nước Việt đâu.

Nỗi ám ảnh thường trực của Trung Quốc không phải là thiếu dầu. Nỗi ám ảnh của Trung Quốc là bị Mỹ và đồng minh của Mỹ bủa vây đường ra biển.

Cái mà Trung Quốc muốn ở Việt Nam chưa chắc đã là dầu hoả, mà là sự thần phục vô điều kiện, là Việt Nam quay lưng hoàn toàn với Mỹ để Trung Quốc có thể tự tung tự tác trên Biển Đông.

Chúng ta đinh thần lại một chút và cần nhắc nhở ông bạn vàng rằng ông ấy cần sự hợp tác của chúng ta để đảm bảo sự lưu thông hàng hải bình thường ở biển Đông. Dù cho hải quân Trung quốc có trang bị tối tân hơn Hải quân Việt nam, nếu xảy ra xung đột, lưu thông hàng hải sẽ bị ảnh hưởng. Trong trường hợp đó, kinh tế Trung quốc có thể sẽ phải trả giá.

.........................

VIỄN TƯỢNG CHIẾN TRANH VN-TQ

.VIỄN TƯỢNG CHIẾN TRANH VN-TQ
KHÔNG CÓ SỰ CAN THIỆP CỦA QUÂN ĐỘI MỸ.
 
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 11.05.2014

 

Chú thích:
Nhìn những tấm hình biểu tình ngày 11.05.2014 trên đây, chúng ta thấy quần chúng Việt Nam bầy tỏ hai đòi hỏi rõ rệt:
a)      Một mặt dân chúng đòi đuổi Tầu ra khỏi bờ cõ Việt Nam với các khầu hiệu:
* CHINA, GET OUT OF OUR SEA
* ĐẢ ĐẢO TẦU CỘNG CƯỚP NƯỚC
b)      Một mặt dân chúng nêu ra rõ rệt việc thiếu trách nhiệm của đảng CSVN khi dân phải đóng thuế nuôi dưỡng, đồng thời đòi buộc CSVN hã xứng đáng với việc lãnh đạo nhà nước. Các khâu hiệu nhìn thấy rõ trên hình:
* NHÂN DÂN ĐÓNG THUẾ ĐỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC
* HÃY XỨNG ĐÁNG LÀ LÃNH ĐẠO ĐẤT  NƯỚC
* ĐẦU HÀNG TRUNG QUỐC THÌ CẠP ĐẤT MÀ ĂN !!!
Với khẩu hiệu: “Đầu hàng Trung quốc thì cạp đất mà ăn !!!”, dân chúng đề cập đến tình trạng phá sản Kinh tế và không cho phép CSVN viện bất cứ lý do gì để đầu hàng hay tiếp tục bán nước cho Trung quốc. Vì lý do khiếp nhược hay vì tham nhũng mà tiếp tục bán nước cho Tầu, thì dân chúng sẽ lôi tội bán nước này ra để dứt khoát CHÔN VÙI HẲNG CƠ CHẾ CSVN.
Nguyễn Phúc Liên
 
Ngày 08.05.2014, trong khi chờ đợi cuộc Biểu tình ngày 11.05.2014, chúng tôi đã viết hai bài đăng kèm dưới đây, với các đầu đề:
*          GIÀN KHOAN HD-981 & CÁI CHẾT CỦA CSVN
*          NHÂN GIÀN KHOAN DẦU, ĐUỔI LUÔN CHỆT LAN TRÀN TRÊN ĐẤT LIỀN
Vào tháng Ba, ngày 13.03.2014, khi nhìn thấy Nga làm ẩu ngang nhiên mang quân chiếm Crimea của Ukraine, chúng tôi nghĩ đến Tầu cũng có thể cậy sức mạnh mang quân đội vào chính đất liền Việt Nam, với đầu đề như sau:
*          TẦU CÓ THỂ LÀM GIỐNG NGA ĐƯA LÍNH CHỆT VÀO VIỆT NAM
Qua những bài trên đây, chúng tôi nhìn thấy viễn tượng của một cuộc Chiến tranh Việt Nam và Trung quốc mà không có sự can thiệp quân sự của Hoa kỳ.
Không có can thiệp quân sự của Hoa kỳ
Trước đây, nhằm ngăn chặn bành trướng Cộng sản từ Trung quốc, vòng đai ngăn chặn của TT.EISENHOWER thắt chặt vào Nam Hàn, Nhật, Đài Loan và Nam Việt Nam. Nhưng khi chơi với Mao Trạch Đông rồi, Kissinger không cần Nam Việt Nam nữa.
Ngày nay, TT.OBAMA chuyển trục quân sự về Á đông, nhưng vòng đai ngăn Trung quốc được nới rộng ra. Cuộc viếng thăm vừa qua của TT.Obama tại Á Đông cho thấy điều đó. Vòng đai là Nam Hàn, Nhật, Phi Luật Tân và Mã Lai Á.
Việt Nam bị bỏ rơi hẳn ra vì những lý do:
=>       Một thể chế độc tài phi nhân đạo
=>       CSVN đi hai hàng: muốn chơi với Mỹ để được bảo vệ nhưng bám chặt lấy Trung Cộng để giữ cơ chế CSVN của mình;
=>       Hoa kỳ không tin tưởng được CSVN như một đồng minh
=>       Dân Mỹ vẫn còn giữ ác mộng chiến tranh Việt Nam, nên khó lòng chấp nhận một việc can thiệp quân sự Mỹ lần thứ hai.          
Kinh tế Tầu bị đe dọa trầm trọng vì Nguyên Vật liêu và Năng Lượng
Không phải chỉ nguyên tham vọng cố hữu bành trướng Hán Tộc, mà Trung Cộng còn nhất thiết phải chiếm vùng Lưỡi bò để khai thác Nguyên Vật liệu nhất là nguồn Năng Lượng dầu hỏa. Khi thấy Hoa kỳ chắc chắn không can thiệp quân sự nữa, thì Trung Cộng yên trí đưa Giàn khoan vào vùng đặc quyền Kinh tế của Việt Nam để khai thác Năn Lượng. Trung Cộng nắm chặt lấy Công Hàm bán nước của Phạm Văn Đồng/Hồ Chí Minh để ngang nhiên chiếm Biển Đảo Việt Nam. CSVN lúc này há miệng mắc quai vì chính Hồ Chí Minh đã bán Biển Đảo cho Trung Cộng rồi với Công Hàm ký bởi Phạm Văn Đồng.
Viễn tượng Chiến tranh Việt-Hoa xẩy ra mà CSVN phải chết
Cuộc chiến tranh này không phải chỉ ở ngoài Biển Đảo, mà còn tất yếu lan trên đất liền vì những lý do sau đây:
=>       Giàn khoan HD-981 là một điều cụ thể, đập vào mắt quần chúng để quần chúng ý thức luôn trên đất liền việc xâm lăng của Tầu đã thành da báo rải khắp Quê Hương từ Bắc tới Nam.
=>       Từ ý thức này, quần chúng không phải chỉ Biểu tình chống việc xâm lăng Biển Đảo, mà còn đòi buộc CSVN phải đuổi Tầu Chệt ra khỏi đất liền mà Tầu Chệt đang lan tràn xâm lăng như vết dầu loang.
=>       Khi CSVN trở thành bất lực không đuổi được Giàn khoan HD-981 ra khỏi vùng biển VN, thì dân chúng sẽ trở thành uất hận và sẽ tự mình hành động đối với đám Tầu Chệt đang khai thác tài nguyên VN trên đất liền, đang lập những làng mạc, những khu thương mại chung quanh những khu khai thác hay dự án, mặc dầu CSVN có ngăn chặn đi chăng nữa.
=>       Trong trường hợp dân chúng hành động như vậy, Trung Cộng có thể cho lính vào lãnh thổ Việt Nam để bảo vệ kiều bào và tài sản của họ.
=>       Quần chúng Việt Nam có lý để quy trách nhiệm của việc Tầu xâm chiếm Biển Đảo và Đất liền của Việt Nam là do chính đảng CSVN bán nước.
Như vậy qua viễn tượng chiến tranh này, CSVN phải CHẾT vì:
1)         Một là Tầu đánh chết CSVN trong trận chiến
2)         Hai là Dân Tộc Việt Nam chôn vùi dứt khoát cái ĐẢNG CSVN BÁN NƯỚC này
 
 
GIÀN KHOAN HD-981
& CÁI CHẾT CỦA CSVN
 
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 08.05.2014
 
Giàn khoan HD-981 là viên thuốc độc mà chính CSTQ nhét vào mồm CSVN để phải nuốt đi và chết. Cái Công Hàm mà Phạm Văn Đồng/Hồ Chí Minh ký bán nước cho Tầu để lấy súng đạn giết Dân Tộc Việt Nam  nay đã được Tầu chế biến thành độc dược HD-981 thấm máu những những người Việt Nam vô tội đã chết vì Công Hàm ấy và được chính Tầu nhét vào mồm CSVN uống  để những kẻ bán nước từ Hồ Chí Minh đến con cháu ngày nay phải chết.
TRỜI XANH  CÓ MẮT và những kẻ gây nhân bán nước đang bị phạt với bản án “Trời không tha, Đất không dung”. Hai viễn tượng được đặt ra cho cái chết này của CSVN : (i) Cái chết tuyệt nọc độc ác của CSVN ! ; (ii) Những ai đang tìm cách cứu cái chết này ?
 
(i) Cái chết tuyệt nọc độc ác của CSVN ! 
            Hồn thiêng của Tổ Tiên sống lại để thẳng tay trừng phạt những kẻ bán nước và Linh hồn những dân Việt vô tội phải chết oan uổng do tội ác chất chồng của CSVN đang hiện về và tuyên án: “MỘT CÁI CHẾT TUYỆT NỌC CSVN“. Đông lắm những linh hồn từ cuộc Cải Cách Điền Địa, từ Tết Mậu Thân 1968, từ những người vượt biên đang nằm đáy Biển Đông những năm 1975. Nhưng Linh hồn này đòi CÔNG LÝ.
            90 triệu dân Việt còn đang sống trong nô lệ ngày nay đứng lên thi hành bản án mà Tổ Tiên ta tuyên phạt kẻ bán nước và những Linh hồn của những người chết oan uổng dưới tội ác của CSVN kéo dài những chục năm trường đang truyền lệnh cho 90 tiệu dân Việt phải nghiêm minh đòi hỏi CÔNG LÝ đối với những tên gay tội ác !  
(ii) Những ai đang tìm cách cứu cái chết này ?
CSVN đã gây tội ác cho dân tộc qua những chục năm dài cho nhiều thế hệ. Cơ chế này còn tồn tại thì Xã hội tương lai còn bị tha hóa đến thác loạn và Kinh tế quốc dân còn bị phá sản. Do đó, vì tương lai thăng tiến Xã hội và phát triển Kinh tế quốc dân, nên phải chôn vui hẳn cơ chế này đi.
Tuy nhiên đảng CSVN đang tìm đủ mọi cách để "chết đuối muốn cứu lấy bọt" bằng chiêu bài HÒA GIẢI HÒA HỢP. Một số những thành phần hoạt đầu chính trị cơ hội trong cũng như ngoài nước đang vận động ngay với những nước ngoài để cứu lấy cái bọt CSVN, nghĩa là chỉ nhằm "cải thiện" những chi tiết bên ngoài cho chế độ mà vẫn giữ lại cơ chế CSVN.
Hồ Chí Minh là tên tội đồ của dân tộc đầu tiên và mang nọc độc Cộng sản rải tràn lên Quê Hương Việt Nam. Phải chôn vùi hẳn cái nọc độc ấy. Chính vì vậy, những thành phần nào còn hoạt động để giữ lại một phần dù nhỏ cũa nọc độc ấy đều bị quần chúng Việt Nam coi là tòng phạm ới tội ác CSVN.          
            Phòng bệnh hơn chữa bệnh, nên chúng tôi muốn nêu ra sau đây những  trường hợp chúng ta phải đề phòng:
=>       Những thành phần gọi là phản tỉnh tại quốc nội, nhưng vẫn còn ca tụng tên tội đồ Hồ Chí Minh hay vẫn còn dấu diếm giữ lại thẻ đảng. Họ có thể tùy cơ hội đứng ra chia phần bánh vẽ theo chiêu bài Hòa Giải Hòa Hợp.
=>       Những thành phần vì tranh chấp nhóm đảng hay địa vị tại trong nước mà đã bị CSVN nhốt tù, nay được thả ra và được CSVN cho ra nước ngoài hoạt động nhằm vận động Hòa Giải Hòa Hợp tại Hải ngoại. Càng nghi ngờ hơn nữa nếu những thành phần được CSVN cho ra nước ngoài mà còn ca tụng tên tội đồ Hô Chí Minh.
=>       Những thành phần chính trị cơ hội, trước đây đã từng đấu tranh chống CSVN, nhưng nay vì ngửi hơi phần bánh vẽ, có thể lén lút hay công khai tuyên bố "đối thoại với CSVN" nhằm phục vụ cho chiêu bài Hòa Giải Hòa Hợp do CSVN, qua Nguyễn Thanh Sơn, đang được kêu gọi tại Hải ngoại. Chúng ta phải theo rõi tên Nguyễn Thanh sơn đi gặp những ai, những nhóm đảng nào để dễ nhận diện đám chầu rìa chính trị cho Hòa Giải Hòa Hợp.
=>       Những thành phần thuộc những Phong trào Nhân quyền. Chúng ta mong muốn nước Việt Nam có Nhân quyền, nhưng không phải là Nhân quyền do CSVN ban phát. Chúng ta phân biệt:
*          CSVN có thể sử dụng Nhân quyền như sợi dây thung nhằm đổi chác quyền lợi vật chất cho đảng của họ
*          Có những thành phần giữa chúng ta núp dưới chiêu bài đấu tranh cho Nhân quyền, nhưng với những tính toán địa vị cá nhân mà chỉ đi tới mức kiện toàn cho cơ chế CSVN, nghĩa là vẫn chấp nhận cơ chế CSVN tiếp tục tồn tại trên Quê Hương Việt Nam
            Tệ hại hơn cả là một số Phong trào Nhân quyền lợi dụng việc quen biết với những Dân biểu, Nghị sĩ nước ngoài để đấu tranh. Những Dân biểu, Nghị sĩ nước ngoài này chỉ đi tới mức đòi hỏi một số những thỏa mãn Nhân quyễn co dãn như dây thung, nghĩa là không đi đến chỗ dứt bỏ hẳn cơ chế CSVN hiện hành.
            Dân Việt tại Hải ngoại có thể nghi ngờ một số những Phong trào Nhân quyền này chỉ đi đến một số thỏa mản do CSVN lừa đảo nhằm giữa lại cơ chế đầy tội ác từ bản chất. Những Phong trào Nhân quền cần phải MINH NHIÊN tạo được sự xác tín của quần chúng rằng mục đích tối hậu của tranh đấu Nhân quyền là đi đến CHÔN VÙI HẲN CƠ CHẾ CSVN. Khi nào quần chúng chưa thấy sự bầy tỏ MINH NHIÊN ấy, thì quần chúng vẫn có quyền nghi ngờ những hậu ý Hòa Giải Hòa Hợp, nghĩa là CSVN vẫn tồn tại
Khi viết như trên, có ít người công kích rằng chúng tôi làm phân tán hàng ngũ chống Công. Chúng tôi xin trả lời rõ rệt rằng:
-          Chính những phạm trù trừu tượng về Nhân quyền không phải là khí giới khả dĩ lật đổ một chế độ, mà ngược lại có thể trở thành những cái màng vải sơn phết đẹp đẽ che bọc cho những tính toán quyền lợi vật chất đen tôi, đôi khi mất công lý.
-          Sự đoàn kết không đến từ cái màng vải bao bọc đẹp đẽ bề ngoài khi bên trong còn những ngờ vực tính toán lừa đảo, mà sự đoàn kết chính yếu đến từ việc làm cho người khác thấy MINH NHIÊN cái mục đích tối hậu không thể ngờ vực: DỨT BỎ HẲN CƠ CHẾ CSVN, chứ không thể chỉ sơn phết bề ngoài đánh lừa người khác mà giữ cái cơ chế đó lại.
Làm thế nào người khác tin rằng một người có thể dứt khoát đấu tranh CHÔN VÙI CƠ CHẾ CSVN mà đồng thời ca ngợi Hồ Chí Minh, một đại tội đồ của Dân Tộc.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 08.05.2014
 
 
 
NHÂN GIÀN KHOAN DẦU,
ĐUỔI LUÔN CHỆT LAN TRÀN TRÊN ĐẤT LIỀN
 
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 08.05.2014
 
Nhân Giàn khoan dầu HD-981 đứng xừng xững  ở vùng Biển đặc quyền Kinh tế của nước ta, CSVN không thể dối trá với dân chúng. Từ vụ Biển, Đảo này, Dân Tộc chắc chắn nổi lên để thanh toán bè lũ CSVN bán nước. Việc bán nước tràn lan trên đất liền từ Bắc chí Nam: nhan nhản những nhượng địa cho Chệt
Thực vậy, chính trên đất liền của lãnh thổ Việt Nam, cuộc xâm lăng của Trung quốc lan tràn như vết dầu loang  thành hình da báo từ Bắc tới Nam. CSVN cai trị Dân Tộc, không những không thi hành trách nhiệm bảo vệ giang sơn, mà còn vì quyền lợi chính trị cho đảng và vì tham nhũng hối lộ của từng đảng viên lãnh đạo, đã để người Trung quốc vào hoành hành trên lãnh thổ như chỗ không người, cho thiết lập những khu thương mại Chệt như tự trị, nhường dài hạn những tài nguyên quốc gia cho Tầu khai thác, trao những khu đất cho Tầu thuê để trồng trọt lâu năm, dành những khu ven biển cho Chệt nuôi tôm cá... để họ mang người sang lập những làng mạc xung quanh.
Đảng CSVN không những không thi hành trách nhiệm bảo vệ non sông, mà còn nối giáo cho giặc làm cho cuộc xâm lăng tiệm tiến của Trung quốc lan tràn trên đất Tổ.
Dân Tộc nhắc cho đảng CSVN những lời dậy của Tiền Nhân
*          Lời Di Chúc của Vua Trần Nhân Tôn :
“Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Tàu Hán. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích.Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn:  "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác".  Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu.“
*          Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã viết :
“Nay các ngươi... trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức,...Chẳng những ta chịu nhục bây giờ, mà trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mải.“
*          Lời của vua Lê Thánh Tôn đã nói như sau:
“... một thước núi, một tấc đất của ta lẽ nào lại tự liệu vất bỏ được !  Kẻ nào dám đem một thước núi, một tấc đất của Tổ Tiên giống nòi để làm mồi cho giặc thì kẻ đó phải bị trừng trị nặng !.”
Khi mà đảng CSVN không những không làm trách nhiệm bảo vệ Nước, mà còn phạm vào cái tội Trời không tha và Đất không dung là tội bán Lãnh Hải, Lãnh Thổ, thì Dân Tộc phải đứng lên làm BỔN PHẬN mà Tiền Nhân trao phó trong suốt chiều dài của Lịch sử: ĐỨNG LÊN TỰ VỆ LẤY MÌNH VÀ KHÁNG CHIẾN ĐUỔI QUÂN XÂM LĂNG ra khỏi bờ cõi !
Xâm lăng Trung quốc đến hồi trầm trọng, Dân tộc phải NỔI DẬY diệt lũ bán nước và đuổi Tầu 
Tại Việt Nam, đảng Cộng sản, vì tham nhũng và vì muốn Trung quốc bảo vệ quyền độc tài cai trị của đảng, nên đã hoàn toàn thả lỏng cho người Tầu vào Việt Nam:
=>       Người Tầu tự do vào Việt Nam không cần Visa
=>       Hầu hết những Dự án do những Công ty Tầu thầu được và đã “xuất cảng“ nhân công Trung quốc sang làm việc. Người Tầu lập những làng cạnh Dự án.
=>       Nhường những Tài nguyên hầm mỏ cho Tầu khai thác dài hạn. Cạnh những hầm mỏ ấy là những làng Tầu
=>       CSVN cũng đã cho thuê dài hạn những khu đồi rộng để Tầu trồng cấy. Nhân công Tầu cũng di dân sang những khu nhượng địa ấy
=>       CSVN đã cho cho Tầu thuê những vùng ven biển dài hạn để nuôi tôm cá.
=>       Các hãng xưởng Tầu cũng đã được xây dựng tại Việt Nam
=>       Những Thương gia Tầu đã dễ dàng chuyển vào Việt Nam tràn đầy hàng hóa Trung quốc để giết hàng Việt Nam tại sân nhà. Phần lớn những hàng hóa Tầu là những hàng tồn kho, hết hạn tại Trung quốc và bán với giá rất rẻ. Hàng Trung quốc mang nhiều chất độc và ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe dân Việt Nam, nhất là quần chúng dân nghèo. Việc lan tràn hàng Trung quốc chính là cuộc xâm lăng Kinh tế của Trung quốc.
=>       Những Thương gia Tầu lập những khu phố, những khu thương mại riêng. Đó là những tiểu “Chợ Lớn “ sau này.
=>       Những lái buôn của Tầu sang Việt Nam để mua hàng, làm đầu cơ và gây xáo trộn việc làm ăn của dân chúng.
=>       Những phụ nữ Việt Nam lấy chồng Tầu hay Đài Loan (cũng là Tầu), rồi con cháu lai Tầu và những con cháu này có thể trở lại Việt Nam ở.
=>       Vì gia đình Tầu chỉ có một con, nên tuổi trẻ Tầu hầu hết là con trai. Những thanh niên Tầu không cần Visa khi qua Việt Nam, nên họ có thể sang lấy Vợ Việt Nam và ở luôn tại đây. Con cái sinh ra cũng mang một nửa máu Tầu phía người Cha
Tất cả những xâm nhập trên đây vào nội địa Việt Nam làm thành “da báo“ của Tầu từ Bắc chí Nam, nghĩa là khắp nước mình đầy những khu Tầu.
Muốn đuổi quân Tầu xâm lăng từ Biển, Đảo đến đất liền, trước hết phải diệt tụi CSVN bán nước. Đó là thi hành BỔN PHẬN mà Tiền nhân trao phó vậy.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 08.05.2014
 
 
TẦU CÓ THỂ LÀM GIỐNG NGA ĐƯA LÍNH CHỆT VÀO VIỆT NAM
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 13.03.2014
 
Nga và Tầu cùng nguồn gian xảo Cộng sản và bất chấp luật pháp Quốc tế. Nga và Tầu hiện nay thường liên kết với nhau để chống đối lại phía Tây phương Hoa kỳ và Liên Au. Cuộc NỔI DẬY của Ukraine cho Việt Nam những bài học sau đây:
*          Dân Ukraine đã cương quyết đứng lên để thoát ảnh hưởng của Nga. Đó là bài học đầu tiên cho Dân Tộc Việt Nam NỔI DẬY để tự cứu mình.
*          Bài học thứ hai là về lựa chọn về Kinh tế. Ukraine chọn Nga là đi vào bế tắc trong phát triển Kinh tế lâu dài. Họ nhất quyết đấu tranh để lựa chọn những Thị trường Tây phương Hoa kỳ và Liên Au. Dân tộc Việt Nam cũng không thể chọn Tầu , mà phải đi với Thị trương Tây phương Hoa kỳ và Liên để phát triển Kinh tế.
*          Bài học thứ ba là việc Putin sử dụng những gian xảo tuyên truyền để đem quân đội vào Crimea và nhằm phía miền Tây của Ukraine với cái cớ là để bảo vệ an ninh và tài sản của dân Nga và dân nói tiếng Nga. Sư hiện diên của quân đội trên lãnh thổ Ukraine nhằm ngăn chặn cái quyết định đi với Tây phương của nước Ukraine. Tại Việt Nam, đảng Cộng sản, vì tham nhũng và vì muốn Trung quốc bảo vệ quyền độc tài cai trị của đảng, nên đã hoàn toàn thả lỏng cho người Tầu vào Việt Nam:
=>       Người Tầu tự do vào Việt Nam không cần Visa
=>       Hầu hết những Dự án do những Công ty Tầu thầu được và đã “xuất cảng“ nhân công Trung quốc sang làm việc. Người Tầu lập những làng cạnh Dự án.
=>       Nhường những Tài nguyên hầm mỏ cho Tầu khai thác dài hạn. Cạnh những hầm mỏ ấy là những làng Tầu
=>       CSVN cũng đã cho thuê dài hạn những khu đồi rộng để Tầu trồng cấy. Nhân công Tầu cũng di dân sang những khu nhượng địa ấy
=>       CSVN đã cho cho Tầu thuê những vùng ven biển dài hạn để nuôi tôm cá.
=>       Các hãng xưởng Tầu cũng đã được xây dựng tại Việt Nam
=>       Những Thương gia Tầu đã dễ dàng chuyển vào Việt Nam tràn đầy hàng hóa Trung quốc để giết hàng Việt Nam tại sân nhà. Phần lớn những hàng hóa Tầu là những hàng tồn kho, hết hạn tại Trung quốc và bán với giá rất rẻ. Hàng Trung quốc mang nhiều chất độc và ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe dân Việt Nam, nhất là quần chúng dân nghèo. Việc lan tràn hàng Trung quốc chính là cuộc xâm lăng Kinh tế của Trung quốc.
=>       Những Thương gia Tầu lập những khu phố, những khu thương mại riêng. Đó là những tiểu “Chợ Lớn “ sau này.
=>       Những lái buôn của Tầu sang Việt Nam để mua hàng, làm đầu cơ và gây xáo trộn việc làm ăn của dân chúng.
=>       Những phụ nữ Việt Nam lấy chồng Tầu hay Đài Loan (cũng là Tầu), rồi con cháu lai Tầu và những con cháu này có thể trở lại Việt Nam ở.
=>       Vì gia đình Tầu chỉ có một con, nên tuổi trẻ Tầu hầu hết là con trai. Những thanh niên Tầu không cần Visa khi qua Việt Nam, nên họ có thể sang lấy Vợ Việt Nam và ở luôn tại đây. Con cái sinh ra cũng mang một nửa máu Tầu phía người Cha
Tất cả những xâm nhập trên đây vào nội địa Việt Nam làm thành “da báo“ của Tầu từ Bắc chí Nam, nghĩa là khắp nước mình đầy những khu Tầu.
Bài học từ Urkraine khiến chúng ta nghĩ rằng Tầu cũng có thể làm giống như Putin, nghĩa là trước mặt Quốc tế, Tầu lấy cớ BẢO VỆ AN NINH VÀ TÀI SẢN của công dân Tầu ở Việt Nam để họ đưa QUÂN ĐỘI TẦU VÀO VIỆT NAM mà Quốc tế cũng đành bó tay như trường hợp Ukraine lúc này.
Dân Tộc Việt Nam phải tự mình đề phòng trường hợp Tầu lấy cớ để xâm nhập quân đội vào Việt Nam. Việc đề phòng phải đặt cơ sở chống lại ngay từ bây giờ chứ đừng đợi sau cuộc NỔI DẬY như Ukraine vì những lý do sau đây:
*          Thái độ yếu ớt của Tây phương trước việc xâm nhập quân đội của Putin vào Urkaine, một nước trực tiếp động chạm đến anh ninh Liên Au, cho chúng ta nghĩ rằng khi Tầu cho quân đội vào Việt Nam, thì Tây phương càng phản ứng yếu ớt hơn vì chúng ta ở xa xôi với Tây phương.
*          Dân Tộc Việt Nam phải đặt những cơ sở KHÁNG CHIẾN chống Tầu ngay từ lúc này trước khi Tầu xâm nhập.
*          Bắt đầu thực hiện KHÁNG CHIẾN thực sự chống Tầu lúc này để báo động cho Quốc tế về nạn xâm nhập quân sự Trung quốc để, trước khi Tầu làm ẩu, Tây phương và Mỹ dễ dàng hỗ trợ chúng ta hơn là lúc Tầu đã cho quân đội vào Việt Nam như việc đã rồi.
*          Việc KHÁNG CHIẾN ngay từ lúc này khiến dân Tầu ở Việt Nam phải ngại sợ và có thể vì đó mà giàm cường độ tăng trưởng những mảnh “da báo “.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 13.03.2014
                                                                    ~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~  
 
   

Thổn thức cho VN : Đoàn Văn Toại

Quý vị muốn biết chuyện xưa thì mời xem
hồi ký của Đoàn văn Toại. Rất đáng xem
"Nay sáng mắt thì đã muộn rồi, Toại ơi!"
LK 2/5/2014​


Thổn thức cho VN : Đoàn Văn Toại
 
​NTH: Đoàn Văn Toại là một Sinh Viên thân cộng nổi tiếng. Ông ở trong Chủ tịch ​đoàn ​Hội Liên hiệp Sinh viên Sài Gòn và đã tham gia vào các hoạt động đòi hoà bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ TT ​Thiệu và sự dính líu của người Quân đội ​Mỹ tai VN. Sau đây là hồi ký ngắn của ông​:
 

Khi cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm 1954, hàng triệu người đã lũ lượt di cư vào Nam. Tôi đã tận tai nghe nhiều câu chuyện về sự đau khổ tột cùng của họ nhưng cũng như nhiều người miền Nam lúc ấy, tôi đã không tin vào những câu chuyện đó. Cả về sau này, tôi cũng đã không tin về những câu chuyện được kể trong tác phẩm 'Quần Đảo Ngục Tù' (The Gulag Archipelago) của văn hào Solzhenitsyn. Tôi không tin vì cho rằng đó là những luận điệu tuyên truyền chống Cộng nhưng vào năm 1979, tôi đã cho xuất bản cuốn sách 'Việt Nam Ngục Tù' của chính tôi. Liệu những người đã từng nếm trải những kinh hoàng dưới chế độ cộng sản có bao giờ thử thuyết phục những người không có cái kinh nghiệm này?
Kể từ năm 1945, năm tôi ra đời tại huyện Cái Vồn thuộc tỉnh Vĩnh Long, một tỉnh lỵ cách Sài Gòn 160 km về hướng Nam, cho đến khi tôi rời Việt Nam vào tháng 5/1978, tôi chưa từng một ngày vui hưởng hoà bình. Căn nhà gia đình tôi đã bị đốt 3 lần trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong suốt cuộc đời niên thiếu, tôi đã phải theo cha mẹ di tản từ làng này sang làng khác để tránh tên bay đạn lạc. Cũng giống như những người Việt Nam yêu nước khác, cha mẹ tôi cũng tham gia kháng chiến chống Pháp. Khi tôi lớn lên, tôi lại tận mắt chứng kiến các nông dân đã bị các quan chức địa phương của chính quyền Sài Gòn áp bức ra sao, và họ đã phải chịu những cuộc oanh tạc tàn khốc của quân Pháp như thế nào. Tôi đã học trong lịch sử sự chiến đấu kiên cường của dân tộc chống lại ách đô hộ ngàn năm của giặc Tàu rồi đến các cuộc kháng chiến gian khổ chống ách thống trị trăm năm của giặc Tây. Với hành trang đó, tôi và các bạn đồng lứa đã lớn lên cùng với nỗi căm thù sự can thiệp của ngoại bang.
Khi các sinh viên Sài Gòn bầu tôi vào chức Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Sinh viên Sài Gòn vào năm 1969 và 1970, tôi đã tham gia vào các hoạt động đòi hoà bình khác nhau, đã lãnh đạo sinh viên biểu tình chống chế độ Thiệu và sự dính líu của người Mỹ. Tôi đã ấn hành nguyệt san Tự Quyết và đã làm một cuộc du hành đến California để thuyết trình về các hoạt động phản chiến ở Đại học Berkeley và Stanford vào tháng 1/1971. Vì các hoạt động đó, tôi đã bị bắt và tống giam nhiều lần dưới chế độ Thiệu. Vào thời điểm ấy, tôi tin rằng tôi đang thi hành sứ mệnh hoà bình và độc lập cho đất nước tôi. Tôi cũng tin tưởng vào đề cương của MTDTGPMN, một tổ chức đang lãnh đạo cuộc kháng chiến cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Tôi căm ghét các nhà lãnh đạo Sài Gòn, các người như Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Trung tướng Đặng Văn Quang ‒ những cựu chiến binh trong quân đội viễn chinh Pháp. Đó là những người được Pháp tuyển mộ vào năm 1940 để giúp chúng tiêu diệt các phần tử kháng chiến Việt Nam. Theo thời gian, họ đã vươn lên thành những nhà lãnh đạo nhưng sự lãnh đạo của họ không thu được lòng dân. Và chính vì không có được ủng hộ của người dân nên họ phải dựa vào các thế lực nước ngoài.
Với tư cách một lãnh tụ sinh viên, tôi cho rằng tôi phải hoàn thành khát vọng của người dân Việt Nam về dân chủ, tự do và hoà bình. 
Một cách ngây thơ, tôi nghĩ rằng chế độ Hà Nội ít nhất cũng là người Việt Nam, trong khi người Mỹ chỉ là những kẻ xâm lược giống như người Pháp trước đó. Như nhiều người trong phong trào đối lập tại miền Nam lúc ấy, tôi tin rằng dù sao các đồng bào cộng sản miền Bắc cũng sẽ dễ có sự tương nhượng và dễ nói chuyện hơn là người Mỹ. Hơn thế nữa, tôi lại thấy choáng ngợp trước các thành tích hy sinh và tận tâm của các lãnh tụ cộng sản. Chẳng hạn, Tôn Đức Thắng, Phó Chủ tịch Bắc Việt, đã bị nhốt đến 17 năm trong nhà tù của Pháp. Tôi cũng bị hớp hồn trước bản đề cương chính trị được MTDTGPMN áp dụng, bao gồm chính sách hoà giải dân tộc, không hề có sự trả thù và chính sách ngoại giao phi liên kết. Cuối cùng, tôi đã chịu ảnh hưởng của các phong trào tiến bộ khắp thế giới và các nhà đại trí thức phương Tây lúc ấy. Tôi đã có cảm tưởng rằng các lãnh đạo phong trào phản chiến ở Mỹ cuối thập niên 60 đầu 70 đã chia sẻ cùng niềm tin với tôi. Niềm tin ấy càng được củng cố hơn sau khi Hiệp định Paris ký kết vào năm 1973 và sự sụp đổ của Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa năm sau đó. Khi cuộc giải phóng đã hoàn tất, tôi chính là người đã khuyên bảo bạn bè và thân nhân không nên di tản. “Tại sao các người lại bỏ đi?” tôi hỏi, “Tại sao các người lại sợ cộng sản?” Tôi chấp nhân một viễn cảnh khó khăn trong thời gian tái thiết quê hương nên đã quyết định ở lại và tiếp tục làm việc với tư cách một quản trị viên một chi nhánh của Ngân hàng Saì Gòn, nơi tôi đã làm việc hơn 4 năm, và là nơi tôi viết các báo cáo mật về tình hình kinh tế Nam Việt Nam cho MTDTGPMN.
(Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã không bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa động viên vì là con một trong gia đình. Tôi cũng không gia nhập Việt Cộng vì MTDTGPMN nghĩ rằng tôi sẽ phục vụ tốt hơn trong vai trò báo cáo tài chính từ ngân hàng).
Sau khi Sài Gòn thất thủ được nhiều ngày, MTDTGPMN thành lập chính quyền Cách mạng Lâm thời, mời tôi gia nhập một uỷ ban tài chính, một nhóm bao gồm các trí thức có nhiệm vụ cố vấn cho chính quyền về các vấn đề kinh tế. Tôi hăng hái tham gia, chấp nhận mức cắt giảm lương đến 90%.
Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là giúp thảo ra một kế hoạch nhằm tịch thu tất cả các tài sản tư nhân ở miền Nam Việt Nam. Tôi cảm thấy sốc, tôi đề nghị chỉ nên thi hành điều đó với tài sản những người từng cộng tác với chính quyền cũ và với những người đã làm giàu nhờ chiến tranh và sẽ phân phối lại theo một cách thức nào đó cho các người nghèo và nạn nhân chiến tranh không phân biệt thuộc phe nào. Đề nghị của tôi bị bác bỏ. 
Tôi đã quá ngây thơ khi nghĩ rằng các quan chức địa phương đã sai lầm, rằng họ đã hiểu lầm ý định tốt của các lãnh đạo đảng cộng sản.
Tôi đã tranh đấu với họ nhiều lần vì hoàn toàn đặt niềm tin vào các tuyên bố của Hà Nội trước đây rằng “tình hình ở Nam Việt Nam rất đặc biệt và rất khác với tình hình miền Bắc Việt Nam”. Chỉ vài tháng trước khi Sài Gòn thất thủ, Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, đã tuyên bố “miền Nam cần có chính sách riêng của nó”. Sau cùng, tôi không thể tuân theo lệnh sắp đặt các cuộc tịch thu tài sản tư hữu, một kế hoạch vẫn đang được xúc tiến. Một kế hoạch như vậy không hề đáp ứng nguyện vọng của người dân Nam Việt Nam và nó đi ngược với lương tâm của tôi. Tôi quyết định từ chức nhưng không ai được phép từ chức trong chế độ cộng sản, một ngụ ý bất tuân lệnh sẽ không được người cộng sản tha thứ. Khi tôi đưa đơn từ chức, người lãnh đạo uỷ ban tài chính đã cảnh cáo rằng hành động của tôi “sẽ bị xem là sự tuyên truyền nhằm kích động quần chúng và rằng chúng ta không bao giờ cho phép điều đó xảy ra”. Nhiều ngày sau đó, trong khi tôi đang tham dự một buổi hoà nhạc tại Nhà Hát Lớn (trước đây là trụ sở Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, nơi mà tôi đã lãnh đạo các sinh viên chiếm giữ nhiều lần trước đây dưới chế độ Thiệu), tôi bị bắt.
Không có sự truy tố cũng như không có lý do nào được đưa ra.
Sau khi Sài Gòn thất thủ, rất nhiều nhà trí thức tiến bộ cũng như nhiều nhà lãnh đạo các phong trào phản chiến trước đây đều tin rằng chính quyền mới sẽ đem lại dân chủ và tự do thay cho sự thống trị của ngoại bang. Họ tin rằng chính quyền mới sẽ đeo đuổi các quyền lợi tốt nhất cho nhân dân, sẽ giữ đúng lời hứa của chính họ về chính sách hoà giải dân tộc, không có sự trả thù. Phủi sạch những hứa hẹn, nhà cầm quyền cộng sản đã bắt giam hàng trăm ngàn người ‒ không chỉ những người đã cộng tác với chế độ Thiệu mà cả những người khác bao gồm các vị lãnh đạo tôn giáo và các cựu thành viên MTDTGPMN. 
Việt Nam ngày nay trở thành một quốc gia không có luật pháp nào khác hơn là sự điều hành độc đoán của những kẻ đang nắm quyền lực.
Không hề có cái gọi là dân quyền. Bất cứ ai cũng đều có thể bị bắt mà không cần truy tố cũng như không cần xét xử. Và khi đã ở trong tù, các tù nhân đều được giáo dục rằng chính các thái độ, hành vi và sự “cải tạo tốt” là yếu tổ chủ chốt đễ xét xem liệu họ có thể được trả tự do hay không- không cần biết họ đã phạm tội gì. Vì vậy, các tù nhân thường là phải tuân lệnh tuyệt đối các quản giáo để hy vọng được thả sớm. Trong thực tế, họ không bao giờ biết được khi nào họ sẽ được thả – hay có thể bản án của họ sẽ được kéo dài thêm. Ở đất nước Việt Nam ngày nay có bao nhiêu tù chính trị? Không ai có thể biết được con số chính xác.
Bộ Ngoại giao Mỹ cho rằng có khoảng từ 150.000 đến 200.000 chính trị phạm, người Việt tỵ nạn thì ước đoán con số đó là 1 triệu.
Hoàng Hữu Quýnh, một trí thức tốt nghiệp Đại học Mạc Tư Khoa, hiệu trưởng một trường kỹ thuật tại Tp. HCM (trước đây là Sài Gòn), vừa mới bỏ trốn trong một chuyến đi tham quan các nước Châu Âu do nhà nước bảo trợ. Ông đã nói với báo chí Pháp, “Hiện nay ở Việt Nam có ít nhất 700.000 tù nhân”. Một nhân chứng khác, Nguyễn Công Hoan, một cựu thành viên trong Quốc hội thống nhất được bầu vào năm 1976, đã vượt biển thành công vào năm 1978, đã tuyên bố chính bản thân ông được biết về “300 trường hợp xử tử” chỉ nội trong tỉnh Phú Yên của ông. Vào năm 1977, các quan chức Hà Nội khăng khăng rằng chỉ có 50.000 người bị bắt giữ vì có những hành vi gây nguy hại cho an ninh quốc gia nhưng trong khi đó,
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố trên tờ Paris Match số ra ngày 22/9/1978: “Trong vòng 3 năm qua, tôi đã trả tự do cho hơn 1 triệu tù nhân từ các trại cải tạo.”
Người ta có thể tự hỏi làm thế nào có thể thả 1 triệu tù nhân trong khi chỉ bắt giữ có 50.000?
Tôi bị tống vào một xà lim 1m x 2m, tay trái bị xiềng vào chân phải và tay phải xiềng vào chân trái. Thức ăn của tôi là cơm trộn với cát.
Khi tôi khiếu nại về cát trong cơm, các quản giáo đã giải thích rằng cát được cho vào cơm để nhắc nhở các tù nhân về các tội ác mà họ đã phạm. Tôi đã khám phá ra khi đổ nước vào tô cơm có thể tách cát ra khỏi cơm và lắng nó xuống đáy nhưng phần nước chỉ có 1lít cho một ngày dùng cho uống và tắm rửa, do vậy tôi phải dùng nó hết sức tiết kiệm. Sau 2 tháng biệt giam, tôi được chuyển ra phòng giam lớn, một phòng giam 5m x 9m, tuỳ theo thời điểm được nhồi nhét từ 40 đến 100 tù nhân. Nơi đây, chúng tôi phải thay phiên để được nằm xuống ngủ và phần lớn các tù nhân trẻ và còn mạnh khoẻ phải chịu ngủ ngồi. Trong cái nóng hầm hập, chúng tôi cũng phải thay phiên để được hứng vài cơn gió mát của khí trời từ một lỗ thông gió chút xíu và cũng là cửa sổ duy nhất của phòng giam. Mỗi ngày tôi đều chứng kiến các bạn tù chết dưới chân tôi.
Vào tháng 3, 1976, khi một nhóm phóng viên phương Tây đến viếng thăm nhà tù của tôi, các quản giáo đà lùa các tù nhân đi và thay vào đó là các bộ đội miền Bắc. Trước cửa nhà tù, không còn thấy các hàng rào kẻm gai, không có tháp canh, chỉ có vài công an và một tấm bảng lớn chăng ngang cửa chính đề câu khẩu hiệu nổi tiếng của Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chỉ có những người đang bị giam và các quản giáo là biết cái gì thực sự ẩn giấu đằng sau những dấu hiệu đó. Và mọi tù nhân đều biết rằng nếu họ bị tình nghi đào thoát thì người bạn đồng tù và người thân của họ tại nhà sẽ bị trừng phạt thay vì chính họ.
Chúng ta sẽ không bao giờ biết được con số thực sự của những tù nhân bỏ mạng nhưng chúng ta đã biết cái chết của nhiều tù nhân nổi tiếng, những người trong quá khứ chưa bao giờ cộng tác với Chính quyền Thiệu hay với người Mỹ: chẳng hạn Thích Thiện Minh, nhà chiến lược cho các phong trào tranh đấu hoà bình của Phật tử tại Sài Gòn, một nhà đấu tranh phản chiến đã từng bị kết án 10 năm dưới chế độ Thiệu, sau cùng bị buộc phải thả ông vì sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam và các nhà hoạt động phản chiến khắp thế giới. Đại Đức Thiện Minh đã chết trong tù 6 tháng sau khi ông bị bắt vào năm 1979. Một cái chết âm thầm khác là của Luật sư Trần Văn Tuyên, một lãnh tụ khối đối lập tại Quốc hội dưới thời Tổng thống Thiệu. Nhà hoạt động nổi tiếng này đã chết dưới bàn tay cộng sản vào năm 1976, mặc dù vào cuối tháng 4/1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố với các phóng viên Pháp rằng ông Tuyên vẫn còn sống mạnh khoẻ trong trại cải tạo. Một trong những tổn thất to lớn nhất là cái chết của triết gia nổi tiếng Việt Nam Hồ Hữu Tường. Tường, bạn đồng môn với Jean Paul Sartre thập niên 30 tại Paris, có lẽ là nhà trí thức hàng đầu tại Nam Việt Nam. Ông chết tại nhà tù Hàm Tân vào ngày 26/06/1980. Đây là những người bị bắt cùng với rất nhiều những người khác trong nhóm những người Nam Việt Nam ưu tú và được trọng nể nhất với mục đích ngăn ngừa bất cứ một sự chống đối nào với chế độ cộng sản.
Một số người Mỹ ủng hộ Hà Nội đã làm lơ hoặc biện minh cho những cái chết này như họ đã từng làm với vô số các thảm kịch đã xảy ra từ khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975. Rất có thể họ sẽ vẫn tiếp tục giữ im lặng nhằm lãng tránh một sự thật về Việt Nam nếu tiết lộ sẽ mang lại một nỗi vỡ mộng sâu xa đối với họ. Cay đắng thay nếu tự do và dân chủ vẫn là mục tiêu xứng đáng để chiến đấu tại Philippines, tại Chile, tại Nam Hàn hay tại Nam Phi thì nó lại không xứng để bảo vệ tại các nước cộng sản như Việt Nam. 
Mọi người đều nhớ đến vô số các cuộc biểu tình chống đối Mỹ can thiệp vào Việt Nam và chống lại các tội ác chiến tranh của chế độ Thiệu. Nhưng một số trong các người đã từng một thời nhiệt thành với các nguyên tắc dân chủ và nhân quyền thì nay lại tỏ ra hết sức lãnh đạm khi cũng chính các nguyên tắc ấy đang bị chà đạp tại nước Việt Nam cộng sản. Chẳng hạn, một nhà hoạt động phản chiến, William Kunstler, vào tháng 5, 1979 đã từ chối ký vào một bức thư ngỏ gởi nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, trong đó có chữ ký của nhiều nhà hoạt động phản chiến khác kể cả Joan Baez phản đối sự vi phạm nhân quyền của chế độ Hà Nội. Kunstler nói “Tôi không tin vào sự chỉ trích công khai một chính quyền xã hội chủ nghĩa, dù đó là sự vi phạm nhân quyền”, và “toàn bộ chiến dịch này của Baez có thể là một âm mưu của CIA”. Câu nói này đã làm tôi nhớ lại lập luận mà chế độ Thiệu thường đưa ra làm lý do đàn áp các người đối lập,
Tất cả các hoạt động phản chiến và đối lập đều do cộng sản giựt dây”.
Còn có rất nhiều những huyền thoại về chế độ hiện hành tại Việt Nam mà người dân rất nên được soi sáng. Nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh đầu tiên là một người quốc gia và rằng đảng cộng sản Việt Nam trước đây cũng như hiện nay đều độc lập với Liên Sô. Tôi cũng là người tin như vậy trước khi cộng sản chiếm miền Nam nhưng rồi chân dung các nhà lãnh đạo Soviet nay được treo đầy các chung cư, trường học và các công sở trên khắp nước “Việt Nam độc lập”. Ngược lại, người ta chưa từng thấy chân dung bất cứ một nhà lãnh đạo Mỹ nào được treo ngay cả trong chế độ được gọi là bù nhìn của Tổng thống Thiệu. Mức độ lệ thuộc của chính quyền hiện hành vào các ông chủ Soviet được thể hiện rõ ràng nhất do thi sĩ nổi tiếng của cộng sản Việt Nam, Tố Hữu, thành viên Bộ Chính Trị và là Trưởng Ban Văn hoá Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có cơ hội được nghe người thi sĩ cao cấp này than khóc nhân cái chết của Stalin: 
  
‘Xít-ta-lin! Xít-ta-lin, 
Yêu biết mấy, nghe con tập nói 
Tiếng đầu lòng, con gọi Xít-ta-lin 
Ông Xít-ta-lin ôi. Ông Xít-ta-lin ôi, 
Hỡi ôi ông mất, đất trời có không? 
Thương cha, thương mẹ, thương chồng 
Thương mình thương một, thương ông thương mười.’ 
  
(Đời đời nhớ ông - Tố Hữu). 

Thật là khó mà tưởng tượng những vần thơ như vậy lại được viết tại Việt Nam, một đất nước mang nặng truyền thống gia đình và bổn phận với con cái và bài thơ ấy vẫn đang chiếm một vị trí trang trọng trong ấn bản về thơ ca Việt Nam hiện đại được xuất bản tại Hà Nội. Hơn thế nữa, Lê Duẩn , Tổng Bí thư đảng cộng sản Việt Nam, trong một bài diễn văn chính trị đọc trước Hội nghị khoáng đại của Quốc hội thống nhất năm 1976, “Cuộc cách mạng Việt Nam là để thực thi bổn phận và các cam kết quốc tế” và vì vậy, trong lời lẽ của bản luận cương của đảng năm 1971 đã viết: “... dưới sự lãnh đạo của Liên bang Soviet”. Sự vinh quang của một xã hội Soviet là mục tiêu chính yếu trong sách lược của đảng cộng sản Việt Nam.
Sau khi Sài Gòn thất thủ, nhà nước đã ngay tức khắc đóng cửa toàn bộ các nhà sách và rạp hát. Tất cả các sách vở được xuất bản trong chế độ cũ đều bị tịch thu hay đốt bỏ. Các tác phẩm văn hoá thuần tuý cũng không ngoại lệ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Jean Paul Sartre, Albert Camus và Dale Carnegie. Ngay cả tác phẩm Cuốn Theo Chiều Gió của Margaret Mitchell cũng nằm trong danh sách văn chương đồi truỵ. Nhà nước thay thế những tác phẩm ấy bằng những tác phẩm văn chương nhằm nhồi sọ trẻ em và người lớn với ý tưởng chủ đạo, “Liên bang Soviet là thiên đường của xã hội chủ nghĩa”. Một lập luận khác của các nhà biện luận phương Tây có liên quan đến vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam. Một điều khoản của bản hiến pháp mới được đưa ra vào năm nay có nêu rằng “nhà nước tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng”. Về điều khoản này, Lê Duẩn đã nhiều lần tuyên bố, “Chế độ của chúng ta triệu lần dân chủ hơn bất cứ chế độ nào trên thế giới”. Ngược lại, trên thực tế, đã trình bày rõ sự thật qua một sự kiện mang tính báng bổ một ngôi chùa Phật giáo, trong vụ đó một người đàn bà khoả thân theo lệnh nhà nước đã tiến vào ngôi chùa trong giờ hành lễ. Khi Hoà thượng Thích Mẫn Giác, một nhà lãnh đạo Phật giáo nổi tiếng, lên tiếng phản đối, nhà nước đã nhân vụ này lên án Phật giáo là kẻ thù của dân chủ, chính xác là vi phạm quyền tự do không tín ngưỡng. Hoà Thượng Thích Mẫn Giác, người đóng vai trò là cầu nối giữa Phật giáo và nhà nước cộng sản, đã phải vượt thoát Việt Nam bằng thuyền vào năm 1977 và nay đang định cư tại Los Angeles. Tất cả những ai từng ủng hộ MTDTGPMN trong cuộc chiến đấu chống chế độ Sài Gòn đều có thể cảm nhận sự bị phản bội và nỗi tuyệt vọng của họ. Khi Harrison Salisbury của tờ New York Times viếng thăm Hà Nội vào tháng 12, 1966, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã nói với ông: “Sách lược tranh đấu của miền Nam được chỉ đạo từ miền Nam chứ không phải từ miền Bắc”. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói với Salisbury: “Không có ai ở miền Bắc có ý tưởng ngu ngốc, tội ác” rằng miền Bắc muốn thôn tính miền Nam. Vậy mà trong diễn văn đọc nhân lễ mừng chiến thắng vào ngày 19/05/1975, Lê Duẩn đã nói: “Đảng của chúng ta là một và là người lãnh đạo duy nhất đã tổ chức, kiểm soát và điều hành toàn bộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam ngay từ ngày đầu của cuộc cách mạng”.
Trong bản báo cáo chính trị đọc trước Quốc hội hợp nhất tại Hà Nội vào ngày 26/05/1976, Lê Duẩn nói: “Nhiệm vụ cách mạng chiến lược của đất nước ta trong thời kỳ mới là thống nhất tổ quốc và đưa toàn bộ đất nước tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, lên chủ nghĩa cộng sản”.
Vào năm 1976, Chính phủ Cách mạng Lâm thời do MTTGPMN thành lập đã bị xoá sổ và toàn thể 2 miền Nam Bắc Việt Nam đều nằm dưới sự cai trị của những người cộng sản. Ngày nay, trong số 17 thành viên Bộ Chính trị và 134 Uỷ viên Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam, không hề có người nào thuộc MTDTGPMN trước kia. Ngay cả Nguyễn Hữu Thọ, cựu Chủ tịch MT, chỉ nắm chức vụ Chủ tịch nhà nước, một chức vụ mang tính nghi lễ với nhiệm vụ đón tiếp khách nước ngoài và tham dự các buổi lễ lạt nhưng ngay cả vị trí đó rồi sẽ bị xoá bỏ khi bản hiến pháp mới ra đời. Hãy nghe lời của ông Trương Như Tảng, một những người sáng lập MT, cựu Bộ trưởng Tư pháp của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, vừa mới đây cũng là một thuyền nhân vượt biển. Ông Tảng trốn thoát khỏi Việt Nam vào tháng 12-1979 và hiện nay sống tại Paris. Ông đã nói với các phóng viên về kinh nghiệm của ông trong cuộc họp báo gần đây vào tháng 5-1980. 12 năm trước, ông nói, khi ông bị bỏ tù dưới chế độ Thiệu vì các hoạt động thân cộng của mình, cha của ông đã đến thăm ông. Ông cụ đã hỏi ông: “Tại sao con lại dứt bỏ tất cả ‒ một công việc tốt, một gia đình sung túc ‒ để gia nhập cộng sản? Con không biết rằng cộng sản rồi sẽ phản bội con và sẽ thủ tiêu con và khi con thật sự hiểu ra thì đã quá muộn?” Tảng, một nhà trí thức, đã trả lời cha “Tốt hơn là cha nên im lặng và chấp nhận sự hy sinh của một trong các đứa con của cha cho nền dân chủ và độc lập của đất nước”.
Sau cuộc Tổng Công kích Tết Mậu thân 1968, Tảng được trao đổi với 3 Đại tá tù binh chiến tranh Mỹ và sau đó ông biến mất vào rừng với MT. Ông đã viếng thăm nhiều nước cộng sản và các nước thế giới thứ 3 để kêu gọi sự ủng hộ dành cho MT trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông đã nói trong cuộc họp báo: Tôi đã biết MT là một tổ chức do cộng sản chi phối và tôi đã quá ngây thơ khi cho rằng Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta sẽ đặt quyền lợi quốc gia lên trên ý thức hệ và đặt quyền lợi nhân dân Việt Nam lên trên quyền lợi của đảng nhưng nhân dân Việt Nam và tôi đã sai lầm”. Trương Như Tảng đã kể về kinh nghiệm của ông về phương sách các tầng lớp lãnh đạo cộng sản cai trị:
Người cộng sản là chuyên gia về nghệ thuật chiêu dụ và có thể làm bất cứ cách nào để dụ bạn về phe họ một khi họ chưa nắm được chính quyền nhưng một khi đã nắm được quyền lực, lập tức họ trở thành sắt máu và tàn nhẫn”.
Ông tóm tắt tình hình tại Việt Nam hiện nay, “Gia đình ly tán, xã hội phân ly, ngay cả đảng cũng chia rẽ”.
"Bây giờ nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, tôi chỉ cảm thấy buồn rầu cho sự ngây thơ của mình khi tin rằng cộng sản là những người cách mạng và xứng đáng được ủng hộ."
Trên thực tế, họ đã phản bội nhân dân Việt Nam và làm thất vọng các phong trào tiến bộ trên toàn thế giới. Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi.
Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi.
Khi tôi còn trong tù, Mai Chí Thọ, một Uỷ viên Trung ương đảng, đã nói chuyện trước một nhóm tù nhân chính trị chọn lọc. Ông ta đã nói với chúng tôi: “Hồ Chí Minh có thể là một quỷ dữ, Nixon có thể là một vĩ nhân. Người Mỹ có thể có chính nghĩa, chúng ta có thể không có chính nghĩa. Nhưng chúng ta đã chiến thắng và người Mỹ đã bị đánh bại bởi vì chúng ta đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một vĩ nhân, Nixon là một tên sát nhân và người Mỹ là những kẻ xâm lược”. Ông ta đã kết luận: “Yếu tố chủ chốt là làm thế nào kiểm soát người dân và ý tưởng của họ. Chỉ có chủ nghĩa Mác Lê mới có thể làm được như vậy. Không ai trong các anh đã từng biết đến một sự kháng cự nào đối với chế độ cộng sản, bởi vậy không nên nghĩ đến điều đó nữa. Hãy quên chuyện đó đi! Giữa các anh ‒ những nhà trí thức ưu tú ‒ và tôi, tôi đã nói với các anh sự thật”. Và quả là ông ta đã nói sự thật. Từ năm 1978, khi cộng sản Việt Nam chiếm đóng Lào, xâm lấn Kampuchea và tấn công Thailand, trong khi đó Liên Sô xâm lăng Afghanistan. Trong mỗi một sự kiện đó, người cộng sản vẫn tự phác hoạ chân dung của họ một cách ly kỳ, là những người giải phóng, người cứu rỗi, người bảo vệ chống lại các lực lượng xâm lăng nước ngoài. Và trong mỗi sự kiện, dư luận thế giới vẫn tương đối êm dịu. 
Nhưng ở Việt Nam, người dân vẫn thường nhắc nhau, Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”. Một trong những người Nam Việt Nam theo cộng sản, ông Nguyễn Văn Tăng, bị tù 15 năm dưới thời Pháp, 8 năm dưới thời Diệm, 6 năm dưới thời Thiệu và hiện nay vẫn còn đang nằm tù, đã nói với tôi,Muốn hiểu người cộng sản, trước nhất phải sống với cộng sản”. Vào một buổi chiểu mưa rơi tại nhà tù Lê Văn Duyệt, Sài Gòn, ông đã nói với tôi: 'Ước mơ của tôi bây giờ không phải là được thả ra, không phải là được gặp lại gia đình. Tôi chỉ mơ được trở lại nhà tù của Pháp 30 năm trước”. Đó là giấc mơ của một người đàn ông 60 tuổi đã gởi trọn tuổi thanh xuân vào việc ra vào nhà tù để chiến đấu cho tự do và độc lập của đất nước. Giờ này, có lẽ ông đã chết trong tù hay có thể đã bị nhà nước của nhân dân hành quyết.
Ước mơ của nhân dân Việt Nam là một cuộc cách mạng thực sự, họ không muốn chủ nghĩa cộng sản. Mức độ đo lường sự chán ghét cộng sản là việc hàng ngàn người đã từ bỏ sự ràng buộc lịch sử của họ với đất mẹ. Dưới thời thực dân Pháp, trải qua bao năm dài chiến tranh, ngay cả trong thảm cảnh nạn đói năm 1945 có đến 2 triệu người chết đói, người Việt Nam vẫn không đành đoạn rời bỏ quê hương, mảnh đất có mồ mả ông cha. Các cuộc đổ xô ra đi tỵ nạn là bằng chứng trực tiếp của sự kinh hoàng với chế độ hiện nay. Hãy nghe lời một người tỵ nạn khác, Nguyễn Công Hoan, cựu thành viên MT và là thành viên Quốc hội thống nhất được bầu năm 1976: Chế độ hiện nay là chế độ phi nhân và áp bức nhất mà nước Việt Nam từng được biết đến”. Ông Hoan trốn thoát bằng thuyền vào năm 1977, sau khi từ bỏ chức vụ của ông trong Quốc hội cộng sản. “Quốc hội”, ông tuyên bố, “là một bù nhìn, các thành viên ở đó chỉ biết nói dạ, không bao giờ biết nói không”.
Giữa các thuyền nhân sống sót, bao gồm cả những người bị hải tặc hảm hiếp và những người chịu nhiều cực nhục trong các trại tỵ nạn, không hề có người nào hối tiếc đã tìm cách trốn khỏi chế độ hiện nay. Tôi tuyệt đối tin rằng sự thật về Việt Nam sẽ dần dần hiện rõ. Nó có sẵn cho những ai muốn tìm hiểu về nó. Như Solzhenitsyn đã từng nói, “Sự thật cũng nặng nề như là thế giới vậy”. Và Việt Nam là một bài học về sự thật.